Saturday, June 20, 2009

Nhìn lại việc thi tú tài ở Việt Nam trước 1975

Hôm nay đọc ở Đàn Chim Việt Online, một tài liệu nói về chuyện thi tú tài ở Việt Nam trước năm 1975, thấy hay, xin mạn phép tác giả Nguyễn Văn Lục và DCVOnline.net cóp lại nơi đây để làm "kỷ nghệ" một tư liệu lịch sử và chia sẻ với những ai không thể vào đọc trực tiếp tại trang web

Phần 1: http://www.dcvonline.net/php//modules.php?name=News&file=article&sid=6427
Phần 2: http://www.dcvonline.net/php//modules.php?name=News&file=article&sid=6431

Tớ chỉ quan tâm đến vấn đề giáo dục, những chuyện khác, không dám bàn :D



Nhìn lại việc thi tú tài ở Việt Nam trước 1975 (I)

Nguyễn Văn Lục



Việc thi cử ở nước ta đã có một truyền thống lâu đời truyền lại. Miền Nam sau này việc thi cử phần nào cũng tiếp nối cái tinh thần của truyền thống ấy.Thật vậy, nước ta đã có gần 20 thế kỷ dùng chữ Hán kể từ thời Bắc thuộc. Và 10 thế kỷ chữ Nôm đánh dấu thời kỳ tự chủ.
Việc thi cử tính ra cũng được ngàn năm.

Cái truyền thống ấy được Nguyễn Hiến Lê viết lại như sau:
"Ở nước ta hiện nay, số hậu duệ của giai cấp ấy kể ra cũng còn được kha khá, nhưng số người còn giữ được nếp nhà thì hiếm đấy; và tôi nghiệm thấy người nào giữ được cũng có vài nét chung rất dễ nhận ra: không ham danh lợi, chăm nom sự dạy dỗ con cái, yêu nước, thích văn chương, chuộng nghề dạy học và hình như có khiếu dạy học nữa."
(Trích Mười câu chuyện văn chương, Nguyễn Hiến Lê, trang 82).


Quảng trường thi Nam Ðịnh (năm 1897), thí sinh phải tự làm lều và đặt chõng để viết bài
Nguồn: nguyentl.free.fr
Phải chăng truyền thống đó sản sinh ra những người thầy như giáo sư Hoàng Cơ Nghị, Trần Trọng Kim, Dương Quảng Hàm hay như thi sĩ Đông Hồ mà lúc chết học trò khắc trên bia hai câu thơ như sau:

Ân sâu nghĩa nặng tình dài
Khóc thầy, khóc mãi, biết đời nào nguôi?


Cũng Nguyễn Hiến Lê viết về thầy Dương Quảng Hàm trong cuốn Hồi ký của ông:
"Tất cả học sinh trường Bưởi không ai không trọng thầy vì vậy. Mà các bạn đồng sự Pháp, Việt cũng quỳ thầy nữa. Thật đáng tiếc, thầy không thọ, mất trong những ngày đầu cuộc kháng chiến ở Hà Nội."
(Trích Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, trang 65).

Giáo dục miền Nam đã tiếp nối cái truyền thống kính trọng ông thầy ấy. Ở miền Bắc thì họ mang thầy ra tố khổ như trong bài viết của Trần Huy Liệu: "Bóc trần quan điểm thực dân và phong kiến trong quyển "Việt Nam Sử Lược" của Trần Trọng Kim" (Tập san sử địa, số 6, 1955).

May là cụ Dương Quảng Hàm đã chết sớm.

Và họ bắt học trò phải "Quyết tâm thực hiện lời dạy của Hồ Chủ tịch và Thủ tướng Phạm Văn Đồng" (Tập san sử địa, số 4, tháng 11, 12-1955, Hà Nội).

Trước đó, khoa cử còn thiếu, các đời Đinh, Lê về trước chưa có thi cử. Việc tuyển chọn người chỉ là tùy tiện, không câu nệ, nhưng lại cũng không có phép tắc gì.

Kể từ năm 1072, đời Lý mới mở khoa thi chọn người tài ra giúp nước.
"Con đường tìm người tài giỏi, trước hết là khoa mục, phàm muốn thu hút người tài năng, thì người làm vua một nước không thể nào không có thi cử"
(Trích Lịch Triều Hiến Chương loại chí (LTHCLT) của Phan Huy Chú, phần mở đầu chương Khoa Mục Chí).

Cái mục đích mở khoa thi đã rõ ràng: Chọn người có tài. Nhưng chọn bao nhiêu? Chọn thế nào?

Đó là cả một vấn đề. Việc thi cử thời xưa còn nhiều điều bât cập như: Cái học từ chương quá, tỉ lệ thi đỗ quá thấp. 1000 người lấy một. Có sĩ tử đã để cả đời đi thi mới đỗ. Ông Đoàn Tử Quang tham dự cả thảy 21 khóa thi từ năm 20 tuổi. Cứ ba năm thi một lần, mãi đến năm 83 tuổi mới thi đỗ. Ông nội Ngô Tất Tố 7 lần đi thi, bố Ngô Tất Tố sáu lần, phần ông Tố hai lần đi thi.

Mặc dầu thi cử khó khăn, nhưng tổ chức thi cử rất nghiêm ngặt. Luật lệ nghiêm minh như ông Đỗ Nhuận viết vào năm 1484:
"Việc lớn trong chính trị của Đế Vương, chẳng gì gấp bằng nhân tài… Khoa cử các đời thịnh nhất là đời Hồng Đức, cách lấy đỗ rộng rãi, cách chọn người công bằng, đời sau không thể theo kịp."
(LTHCLC, phần Khoa Mục Chí).

Chỉ cần giữ lại mấy chữ: Lấy rộng rãi, cách chọn người công bằng. Đời sau không sánh kịp.

Nếu nhìn lại việc thi cử ở miền Nam, tôi chỉ thấy việc thứ nhất còn chưa ổn, việc thứ hai có lẽ cũng không thua gi việc thi cử đời Hồng Đức cả. Trừ giai đoạn chót của VNCH, việc thi cử xem ra có một số trường hợp bê bối. Đã có dư luận đồn thổi về tình trạng con ông cháu cha, kẻ có tiền của.

Sau này đến đời vua chúa triều Nguyễn, phép tắc thi cử cũng vẫn nghiêm ngặt như vậy. Nhà vua xem xét từng li từng tí việc học của các sinh viên trong trường Quốc Tử Giám.Ta hãy nghe lời phê phán vừa nặng nề vừa cho thấy mối quan tâm của vua Minh Mạng đối với tương lai giáo dục ra sao. Năm 1837, vua ra chỉ dụ:
"Thế mà nhìn lại các học quan chỉ biết chiếu lệ thường khảo hạch cho có, gọi là đã làm xong chức vụ, còn quy trình giảng dạy thi lên lớp, tiến bộ ra sao, trình độ học sinh như thế nào, không lưu ý tới, thì bảo sĩ tử gắng sức ở chỗ nào."
(Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ - Bộ Lễ - Q.192: Học Hiệu).

Thât ra miền Nam có khá nhiều kỳ thi: Thi tiểu học, thi nhập học lớp đệ thất các trường công lập, thi Trung Học Phổ thông dành cho các lớp đệ tứ và thi tú tài 1 và 2. Ở đây chưa kể việc thi trên Đại Học, thi tuyển vào trương chuyên nghiệp như Quốc Gia Hành Chánh, Đại Học sư phạm, các trường Kỹ sư (Phú Thọ) Điện, Công chánh, v.v...

Việc thi cử phần đông tiến hành tốt đẹp.


Chứng chỉ Tú tài
Nguồn: DCVOnline
Tôi chỉ đưa ra một tỉ dụ. Việc thi vào đệ thất các trường công lập khó mà tránh khỏi một số trường hợp quen biết gửi gắm. Nhất là tại các tỉnh. Cho dù có gửi gắm cũng không phải là ăn tiền hay hối lộ. Có thể chỉ vài trường hợp cá biệt, đơn lẻ. Vì thế vẫn bảo đảm được chất lượng thi cử. Bằng chứng rõ ràng tỉ lệ các học sinh trường công thi đỗ thường cao hơn trường tư nhiều vì có sàng lọc rồi. Nếu trường tư thi đỗ đạt tỉ Lệ 20% thì trường công, tỉ lệ thí sinh thi đậu tú tài là 75% đến 85% hoặc hơn thế nữa.
Nếu tuyển sinh đệ thất không minh bạch thì kết quả thi đỗ tú tài ở trường công tỉ lệ thi đỗ đã khác.

Có nhiều lớp, toàn thể học sinh đều thi đỗ. Đặc biệt một lớp ban B, trường Petrus Trương Vĩnh Ký, vào năm 1970, toàn thể học sinh đều thi đỗ hạng Bình trở lên. Dĩ nhiên, cũng có trường hợp nhà trường dồn học sinh giỏi vào cùng một lớp. Sau này, lớp học này có nhiều học sinh xuất sắc được học bổng, đi du học và thành tài. Và một trong những học sinh ưu tú ấy, hai lần đỗ tú tài 1 và 2 hạng ưu, điểm trung bình toàn bộ các môn phải từ 16 trở lên và hiện nay ngoài công việc chỉ huy ở sở, anh đang giữ trọng trách với một tổ chức phi lợi nhuận.

Việc học còn từ chương

Việc này, Nguyễn Trường Tộ (1830-1871) ngay từ năm 1867 đã phê phán thẳng thừng và dứt khoát, ông viết:
"Nhìn lại sử học của ta ngày nay, 1867, những điều thầy dạy, những điều trò học, toàn là những chuyện xa xưa. Lúc nhỏ thì học văn từ, thơ phú, lớn lên ra làm việc thì lại thấy luật-lịch-binh-hình… Xưa nay, trên thế giới chưa từng nước nào có nền học thuật như vậy... Nếu đem cái công phu cả đời đem tâm trí ra trau chuốt chữ nghĩa mà học những việc hiện tại như trận đồ, binh pháp, đắp thành giữ nước, sử dụng súng ống thì có thể chống được giăc..."
(Trích Nguyễn Trường Tộ - Con Người và Di Thảo, Trương Bá Cần, trang 76, NXB Tp. HCM, 1988).

Rất tiếc những lời cảnh báo về cái học từ chương, "toàn những chuyện xa xưa" không được vua quan để ý tới và kéo dài cho mãi đến bây giờ.

Mặc dầu việc phê phán của Nguyễn Trường Tộ nhằm vào thời kỳ còn nặng nho học, nhưng cái tinh thần ấy vẫn còn rơi rớt lại sau này. Chẳng hạn trong chương trình tiểu học của miền Nam sau này. Học trò tiểu học phải học thuộc lòng các bài địa lý, lịch sử, cách trí. Học thuộc lòng ra rả như cuốc kêu. Kể thật cùng tội. Các lớp trung học, nhất là ban Vạn vật thì Vạn vật cũng là môn học thuộc lòng, môn học đào luyện trí nhớ tốn bao thì giờ công sức mà xét ra ít hữu dụng. Các môn sử ký, địa lý trong cách giảng dạy, trong cách chấm điểm còn nặng tính từ chương, thiếu óc phê bình, thiếu nghị luận. Ngay các bài giảng văn cũng được diễn giải một chiều, ước lệ, có bài bản sẵn, ít đi ra ngoài thông lệ, ít sáng tạo, thiếu cách đặt lại vấn đề, thiếu phản biện.

Nói chung là còn vướng mắc nhiều tinh thần lệ thuộc. Lệ thuộc người xưa, lệ thuộc sách vở và ngay cả lệ thuộc vào ông thầy.

Các lớp dạy luyện thi cho thấy học trò lệ thuộc vào ông thầy như thế nào.

Và đây là một lời dạy khuôn vàng thước ngọc:
"Các người lại không bắt chước người đời xưa sao, hay là chỉ lấy tiếng ư? Học trò tranh nhau mài gọt, gây dựng nhân tài, để làm việc nước, có vậy mới không phụ ý trong việc học, hậu đãi người hiền, mọi người đều phải kính cẩn tuân theo."
(Trích Đại Nam Thực Lục chánh biên).

Đại NamThực Lục chánh biên là sách ghi chép sử triều Nguyễn từ Gia Long đến Đồng Khánh, chia làm nhiều kỳ, mỗi kỳ là một đời vua. Có tất cả 6 kỳ.

Cái học lệ thuộc thầy, lệ thuộc "cours" còn tồn tại ngay ở các đại học. Sinh viên thi đỗ chỉ cần thuộc cours của giáo sư giảng trong lớp.

Thi cử lấy đỗ khá khắt khe.

Tiêu biểu cho sự khắt khe này là hình ảnh Vân Hạc trong Lều Chõng của Ngô Tất Tố, một sĩ phu tài tuấn, có lương tri, có tài học mà lận đận với thi cử. Nó là bản cáo trạng đối với tổ chức lề lối học hành và thi cử thời xưa, lãng phí nhân tài và chất xám của đất nước.

Người viết đã truy tìm một số kết quả các kỳ thi Trung Học Phổ Thông và tú tài sau 1954 để cho thấy việc thi cử là khắt khe quá. Nhưng kết quả tìm tòi còn chưa được như ý muốn.

Năm 1950, đại học văn khoa Sài Gòn, ở đường Garcerie nay là Phạm Ngọc Thạch mới có 50 sinh viên theo học và 50 dự thính viên. Trường Khoa Học mới có 14 sinh viên đậu chứng chỉ P.C.B, 2 sinh viên đậu S.P.C.N, 3 sinh viên đậu toán đại cương, 2 sinh viên đậu vật lý đại cương. Năm 1954-1955 có 13 bác sĩ, 11 dược sĩ, cử nhân luật 159 và rất tiến bộ đã có 135 người đậu chứng chỉ khoa học.
(Trích Địa chí Văn hóa TPHCM, trang 743-745)

Một học sinh giỏi nhất lớp ở ngoài Bắc vào năm 1948, vậy mà trong học bạ của anh, không có điểm số nào anh đạt trung bình. Xem và đọc để thấy nó vô lý như thế nào!!!

Học bạ 1950
Nguồn: NVL

Giỏi nhất lớp, thông minh mà điểm chưa đạt trung bình? Và đây là nhận xét của giáo sư Dương Thiệu Tống, người đã còn giữ học bạ này của học trò gửi cho làm kỷ niệm. (gs Dương Thiệu Tống, trường Trung Học kiểu Mẫu, Thủ Đức)

Ông nhận xét như sau:
"Điểm nhận xét đầu tiên của tôi là điểm số các môn học ngày xưa sao lại thấp đến thế, ngay cả đối với học sinh đứng nhất lớp như các thí dụ trên đây.
(Trích "Suy Nghĩ về giáo dục truyền thống và hiện đại", Dương Thiệu Tống, nxb Trẻ, trang 279-281)

Nhưng câu nhận xét sau đây của giáo sư Dương Thiệu Tống thật hơi lạ.
"Vậy phải chăng các thầy giáo chúng tôi ngày xưa không bị áp lực bởi thi đua đạt thành tích nên có thể cho điểm trung thực hơn? Phải chăng chúng tôi quá khắt khe với học sinh? Hay là học sinh ngày nay giỏi hơn xưa quá nhiều? Tôi xin phép dành các câu hỏi này cho các đồng nghiệp và các trường học của chúng ta suy ngẫm và tìm giải đáp."
(Trích như trên)

Giáo sư đã cho phép dành cho đồng nghiệp tìm ra giải đáp thì tôi xin được thưa với giáo sư như thế này. Giáo sư là thầy của nhiều thế hệ mà bản thân người viết bài này có thể chỉ là hàng con cháu. Giáo sư đã đi du học Hoa Kỳ mang về cái bằng Tiến sĩ giáo dục mà vấn đề cho điểm như trên, giáo sư lại thối thác không cho một giải đáp.

Thưa giáo sư, trồng cây thì phải có quả. Trồng tốt sẽ cho quả tốt. Trồng người cũng gần như vậy. Dạy học thì trò đi thi phải đỗ. Không đỗ thì phần trách nhiệm không nhỏ là do thầy, do chương trình, do xã hội. Điểm phi lý đến nực cười là cho điểm thì đều dưới trung bình mà lại đứng đầu lớp. Không lẽ học trò đều dốt cả? Cho dù thế nào đi nữa thì không có lý nào điểm thì kém, dưới trung bình trong khi lời phê của giáo sư thì nào là giỏi, thông minh, đáng khen. Như vậy thì nên căn cứ vào điểm hay vào lời phê? Lời phê như thế có phản ảnh đúng trình độ học sinh hay không? Giải pháp là xét lại thang điểm và thay đổi thái độ chấm bài, nhất là bài văn, cần kèm thêm các câu hỏi giáo khoa hay trắc nghiệm như sau này Bộ giáo dục Việt Nam Cộng Hòa đã đem ra áp dụng.

Thực ra khó khăn do thi cử và giáo dục thì ở đâu cũng có. Mỗi thời mỗi khó khăn khác. Như tỉnh Québec mà tôi đang ở. Mỗi năm dành 13 tỉ đô la dành cho giáo dục, vậy mà nhiều học trò trung học, ngay cả đại học còn viết đầy lỗi chính tả. Ngay ông Thủ tướng trong bài diễn văn đọc về cải cách giáo dục, người ta tìm ra được 13 lỗi phạm lớn:
"N'est–ce pas le premier ministre Jean Charest, qui dans un discours à l'Assemblée nationale, affirmait vouloir poursuivre ses efforts" pour améliorer la qualité de notre langue commune, le francais" alors qu'il remettait aux journalistes un texte comptant une douzaien de fautes majeures..." (Trích "Le grand mensonge de l'éducation", Luc Germain, Luc Papineau, Benoit Séguin, trang12).

Phải chăng ngay cả ông Thủ tướng Charest trong một bài diễn văn đọc trước Quốc Hội khẳng định trong nỗ lực tiếp tục "Cải tiến phẩm chất tiếng nói chung của chúng ta là tiếng Pháp," vậy mà, chính ông Thủ tướng đã phát cho các nhà báo một bản diễn văn trong đó tính ra có đến 13 lỗi phạm lớn.

Kinh nghiệm đi chấm thi tú tài 2 các bài Triết hay luận Pháp Văn, Anh Văn cho thấy hệ số bản thân người chấm, hệ số tin cậy và sai số do hai giám khảo chấm, cách nhau trung bình hai điểm, có khi là 4 điểm. Thường trước khi bắt đầu chấm, giám khảo ngồi thảo luận "thang điểm". Phần này thì cho bao nhiêu điểm, phần kia bao nhiêu điểm. Sau đó cộng lại các điểm đã cho. Sự sai biệt giữa hai giám khảo chấm cũng một bài là từ hai đến ba điểm, có khi 5 điểm cho thấy việc chấm thi thiếu công bằng, thiếu khách quan. Giả dụ bài Triết ban C, hệ số 4. Cách nhau 3 điểm, nhân 4 trở thành cách nhau 12 điểm. Quá bất công cho học trò, vì nhiều khi chỉ cần một điểm là đủ đỗ?

Kinh nghiệm bản thân khi tôi thi tú tài 2 ban C, chọn Pháp Văn làm sinh ngữ một. Bài thi bắt buộc là một bài luận văn chương Pháp chọn trong các tác giả thế kỷ 19 như Victor Hugo, Alfred de Vigny, Lamartine, Chateaubriand, v.v... Sinh ngữ 2 là anh văn thì gồm có một bài luận luân lý. Cả năm đã học theo chương trình như thế. Nhưng nghe tin đồn là năm nay, giáo sư Nguyễn Văn Lúa, giáo sư Pháp Văn đại học Văn Khoa xuống chấm thi. Không ai bảo ai, một số học sinh sợ ăn điểm một hai gậy của giáo sư Lúa bèn trốn ông, chọn Anh Văn làm sinh ngữ một.

Tên sao trùng với người thế. Gặp ông là lúa đời rồi. Ông nổi tiếng hung thần đánh rớt học trò. Vậy mà được đồng nghiệp kính nể. Anh Văn vốn tôi đã chẳng giỏi gì, phần lớn thời gian tự học lấy trong "Butterfly". Giọng đọc anh văn thì thầy còn đọc trật huống chi trò. Sang Mỹ này vừa chẵn 30 năm mà nói Mỹ vẫn chưa hiểu!!! Sau bài luận văn chương ép uổng đó, từ đó đến nay, tôi không hề dám viết một câu tiếng Anh nào nữa, mặc dầu việc biên khảo hiện nay, phần lớn, tôi đều dựa trên sách viết bằng tiếng Anh.
Nói theo kiểu giáo sư Dương Thiệu Tống, nói Mỹ nó không hiểu thì nó dốt hay mình dốt? Giáo sư Dương Thiệu Tống còn viết bài: Trẻ Chưa Ngoan, Nguyên nhân? Tôi thấy ông thật thà quá. Nguyên nhân chính là cộng sản mà ông cứ nói đâu đâu?

Ông Cụ Vương Hồng Sển trong cuốn Hơn nửa đời hư có kể đi dự thi concours để làm việc cho Pháp, thi mãi không đậu. Ông viết:
"Kỳ nầy, chua cay là rớt số Một, khít nút với người đội sổ. Gặp thầy bói tên Trần Thúc Sanh, coi tay và coi tướng, nói mình về già tốt phúc, năm nay không đậu vì tiểu nhơn ám hại, muốn đậu phải liều như đánh bài thua. Nhưng mình vẫn nhất quyết "Không liều như đánh bài," chỉ còn tự trách còn óc mê tín, tin dị đoan và vẫn đi xem bói." Cuối cùng ông kết luận: "Cám ơn đã được thi rớt."
(Trích Hơn Nửa Đời Hư, Vương Hồng Sển, trang 226-228).

Nói chuyện với mấy vị giáo chức lớn tuổi, họ thường ân hận là trong đời đi dạy, họ đã chấm điểm ngặt nghèo qua. Vì mình mà có đứa phải đi lính, có đứa biết đâu vì thế chết ngoài mặt trận.

Sau đây là kết quả các kỳ thi tú tài 1 và tú tài 2 vào niên khóa 1954-1955 cho thấy kết quả thí sinh thi đỗ là bao nhiêu của hai chương trình Việt và Pháp lúc bấy giờ.


Bảng 1: Kết quả kỳ thi tú tài I và 2, chương trình giáo dục Việt Nam 1953-1954, Sài Gòn-Nam Bộ
Nguồn: Việt Nam niên giám thống kê, trang 126-130

Bảng 2: Kết quả kỳ thi tú tài 1 và 2 chương trình Pháp 1954-1955
Nguồn: Việt Nam niên giám thống kê, trang 126-130


Một vài nhận xét

Tú tài Việt

Đây là năm cuối cùng của việc thi cử trong hệ thống giáo dục của Pháp.

■ Nên nhớ rằng, chính phủ quốc gia chỉ mới công bố chương trình thi lấy bằng Trung Học Phổ thông đệ nhất cấp kể từ 1950. Khóa 1, tháng sáu/1950, khóa 2 vào tháng 9/1950.

■ Vì thế không lạ gì số học sinh trường Việt dự thi ít hơn trường Pháp đến gần một nửa. Điều đó cho thấy việc học chỉ dành cho những người có tiền của, loại con ông cháu cha khác hẳn kỳ thi năm 1955-1956. Trường Petrus Ký, Gia Long mới chỉ bắt đầu mở các lớp đệ thất dạy chương trình Việt, nhưng vẫn duy trì một số lớp chương trình Pháp.

■ Tỉ lệ tú tài 1: thí sinh thi đỗ tú tài 1, Việt Nam, kỳ 1 là 25% cộng cả hai kỳ là 35%. Thấp.

■ Tỉ lệ thí sinh bỏ dự thi tú tài 1, kỳ 2, rất cao. Điều đó cho thấy, người giỏi thì đỗ ngay kỳ đầu, người không học, sau khi thi thử kỳ đầu, không đậu đã bỏ luôn, không dự kỳ khóa hai. Đáng nhẽ phải có hơn 800 dự thi khóa hai, chỉ còn hơn 500 dự thi khóa hai. Đã có khoảng 300 người bỏ cuộc. Cho dù thi lại, tỉ lệ thi đậu chỉ hơn 10% so với kỳ đầu là 25%.

■ Tỉ lệ tú tài 2: Những người thi tú tài 2 đều giỏi vì đã được sàng lọc trong kỳ thi tú tài 1. Vì thế tỉ lệ thi đỗ rất cao so với tú tài 1. 70%. Số lượng những người tham dự kỳ thi tú tài 2, khóa hai cũng rất cao, chỉ vắng mặt vài chục người, vì họ tin rằng họ có thể thi đậu nên không bỏ cuộc.

■ Tỉ lệ thi Trung học đệ nhất cấp đậu cao, đến hơn 50%.

■ Những con số thi cử này sẽ thay đổi nhiều trong các năm tới khi có số đông học sinh di cư vào Nam cũng như các trường trung học mở ra khắp nơi.

Tú tài Pháp

■ Nhận xét thứ nhất là thi tú tài Pháp gay go và khó đỗ hơn tú tài Việt. Vì họ chỉ thi có một kỳ, không có kỳ 2. Tỉ lệ thí sinh thi đậu chỉ đạt 20- 25%. Vì thế sau này không lạ gì, nhiều học sinh đổi sang trường Việt học thi cả hai kỳ thi Việt Pháp. Tại trường Cao Bá Nhạ, gần đường Cống Quỳnh, Trần Hưng Đạo, có một trung tâm luyện thi dành cho học sinh chương trình Pháp thi tú tài Việt. Ai là người đã học trong hai lớp này?

■ So sánh hai bảng thì kết quả thi cử Việt Nam cho đỗ nhiều hơn thí sinh người Pháp. Phải chăng học sinh Việt Nam học giỏi hơn người Phảp, chăm hơn người Pháp? Tôi nghiêng về lý do giám khảo Việt Nam chấm rộng hơn giám khảo Pháp.

Và đó phải coi là một ưu điểm, tiến bộ về phía giám khảo Việt Nam.

Thi cử qua các kỳ thi tú tài 1 và 2 ở miền Nam là công bằng vì tổ chức chặt chẽ và vì lương tâm nhà giáo.

(Còn tiếp)


© DCVOnline

Monday, June 15, 2009

Lê Công Định

Một trong những tin tức nổi bật từ trong nước ra hải ngoại mấy ngày nay là việc luật sư Lê Công Định bị bắt. Một luật sư trẻ, có tài, có tương lai và khá thành công. Nhà ở Phú Mỹ Hưng, quận 7. Văn phòng ở quận 1. Vợ củ là một hoa hậu. Vậy, cái gì đã làm luật sư Lê Công Định bỏ hết tất cả để làm cái công việc nguy hiễm như vậy?

Phải chăng là do lòng yêu nước.

Google trên web, tìm được bài phóng sự này ở báo Tuổi Trẻ. Trong bài có đoạn làm tôi chú ý:
Năm 1989, Định mới ra trường, vào làm việc ở Phòng Công chứng số 1. Ngoài công việc phụ tá cho công chứng viên, Định biết tiếng Pháp nên được giao thêm việc thống kê sắp xếp kho tài liệu dưới tầng hầm của tòa nhà 89 Nguyễn Du. Đó vốn là trụ sở của phòng chưởng khế Sài Gòn trước 1975.

Sáng công tác chuyên môn, chiều làm trong kho tư liệu. Vừa làm vừa tò mò đọc xem thời trước người ta hành xử công việc pháp lý như thế nào. Càng đọc, Định càng sửng sốt khi những kiến thức của một cử nhân luật như mình lại không hiểu hết một văn bản pháp lý của nền hành chính cũ. Trong đầu Định một ý nghĩ lớn dần: trước đây VN từng có một nền văn minh pháp lý rất chuẩn mực.

Tuesday, June 09, 2009

Một đá chọi bốn chim

Mấy tháng trước cứ ấm ức: Tại sao cái thằng Wordpress hổng cho mình gửi bài bằng email. Hôm nay, lục lọi mãi mới thấy:
http://en.blog.wordpress.com/2009/05/12/post-by-email/

Trước đây mình chỉ có thể đăng bài qua email tới Blogspot và Multiply.
Mail-to-Blogger
Can I post on my Multiply site by sending an e-mail?

Rồi mò mẫm ở trên internet, mình biết cách để Facebook tự động nhập blog của mình vào phần Facebook Notes.
Importing Blogger into Facebook Notes

Từ giờ trở đi, mình có thể một đá chọi bốn chim: Blogspot, Facebook, Multiply và Wordpress. Sân chơi nào cũng có mặt. (Bon chen :D) Viết một lần có bốn bản, không phải tốn công cắt và dán vô từng nơi. Không phải lo dọn nhà. Không lo mấy ông chủ đất dịch vụ blog đóng cửa. Kế tiếp, cố viết cho hay, cho vui.

Chú ý: Bạn nào bắt chước mình, dùng email post bài, nhớ cẩn thận. Nếu không, ai đó dùng email để gửi bậy bạ vô blog ngoài ý muốn, kẹt :)

Monday, June 08, 2009

Dọa kiện UBND xã vì thiếu... gái chưa chồng

Phóng sự này VTC News đăng từ hôm 20 tháng 5, hôm nay mới đọc. Không có vợ, đôi khi cũng sướng mà. Việc gì phải khẩn trương thế?  :D

Dọa kiện UBND xã vì thiếu... gái chưa chồng
20/05/2009 9h59 (GMT+7)

(VTC News) - Mới đây, do bức xúc chuyện con trai mình không lấy được vợ, mấy ông bố bà mẹ kéo lên UBND xã Đại Hợp (huyện Kiến Thụy, Hải Phòng) dọa kiện các lãnh đạo vì tội… "nối giáo cho giặc".

 

> Chuyện về những đám cưới "tàu nhanh" và hôn lễ trong... đêm

> "Chém" gia đình cô dâu tới 100 triệu đồng vì công... làm mối

 

Anh Hoàng Văn Phú, Trưởng Công an xã Đại Hợp cho biết, người dân trong xã có "truyền thống" xuất ngoại từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước.

 

Ngày đó, những người xuất ngoại chủ yếu là nam thanh niên có khả năng đi biển. Họ thường đi thuyền dọc ven biển Trung Quốc rồi nhập cảnh trái phép vào Hồng Kông.

 

Hàng chục cô gái xếp hàng cho đàn ông Hàn Quốc chọn.

 

Tính đến nay, xã Đại Hợp đã có hơn 3.000 lượt người xuất cảnh và có tới 1.000 người đã xuất cảnh ra nước ngoài. Ngoài những đối tượng xuất cảnh trái phép, đi lao động nước ngoài, số còn lại hầu hết là chị em phụ nữ lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Hồng Kông…

 

Cả xã Đại Hợp có 2.500 nhân khẩu, thì có tới gần 700 phụ nữ xuất ngoại lấy chồng. Tuần nào trước cổng UBND xã cũng thay tấm biển mới niêm yết danh sách những cô gái lấy chồng ngoại.

 

Cứ năm nhiều bù năm ít, tính ra, trong vài năm gần đây, có đến 50% phụ nữ đến tuổi lấy chồng đã xuất ngoại tòng phu. Điều đó đồng nghĩa với việc 50% số đàn ông ở Đại Hợp có nguy cơ ế vợ, nếu không đi "ăn cỏ đồng khác".

 

Có một điều thực tế là sự mất cân bằng giới đang diễn ra rất nghiêm trọng ở Đại Hợp. Các nam thanh niên ở đây rất khó lấy vợ.

 

Phần lớn thời gian trong năm thanh niên ở Đại Hợp lênh đênh trên những chuyến tàu đánh bắt xa bờ. Chỉ những ngày con nước, sóng to gió lớn là họ ở nhà. Tranh thủ thời gian ít ỏi này họ kéo nhau đi hỏi vợ.

 

Tuy nhiên, khi đến nhà các cô gái tìm hiểu, bố mẹ các cô đã "phục" sẵn ở cửa bảo: "Em nó có nơi có chốn rồi, anh đi tìm hiểu chỗ khác nhé!". Thực tế, con gái họ chưa có nơi chốn nào cả. Những ông bố bà mẹ này nói vậy vì đang nhờ mối tìm cho con gái mình một tấm chồng Hàn Quốc.

 

Lực lượng công an xã  tiếp xúc, tuyên truyền cho các ông bố, bà mẹ về mặt trái của việc lấy chồng ngoại để tránh những "sự cố" có thể xảy ra.

 

Để lấy được vợ, thanh niên Đại Hợp phải đi tìm hiểu ở các xã khác, huyện khác. Thậm chí, đã có rất nhiều đám cưới mà chú rể là người Đại Hợp, còn cô dâu ở tít trên Cao Bằng, Bắc Kạn, Sơn La, Lai Châu… 

 

Mới đây, do bức xúc chuyện con trai mình không lấy được vợ, mấy ông bố bà mẹ kéo lên UBND xã Đại Hợp dọa kiện các lãnh đạo vì tội… "nối giáo cho giặc". Các cụ yêu cầu không được cho con gái ra nước ngoài lấy chồng nữa.

 

Anh Hoàng Xuân Tiến, Phó Chủ tịch UBND xã Đại Hợp hiểu tâm trạng các cụ, song nếu không xác nhận cho họ kết hôn khi họ có đủ thủ tục theo luật hôn nhân, thì họ sẽ kiện anh ra tòa. 

             

Bại liệt, nghiện ngập, phạm pháp… cũng OK!

 

Phần lớn các cô gái ở Đại Hợp cứ 15-16 tuổi là bỏ học, đi tập nấu ăn, đến khi đủ tuổi kết hôn là "tậu" chồng ngoại. Anh Tiến đã từng hỏi một cô gái có ý định lấy chồng Hàn Quốc rằng: "Tiêu chuẩn của người đàn ông để em lấy làm chồng là gì?". Cô nàng lớn lên từ cây lúa, củ khoai này vô tư trả lời: "Chồng phải có lương ít nhất 5 triệu một tháng cháu mới lấy!". Với tiêu chuẩn đó, mấy cô gái quê mùa này không thể lấy được chồng Việt mà phải lấy chồng ngoại.

 

Những bi kịch đằng sau tình trạng lấy chồng nước ngoài kiểu mua bán được báo chí đăng tải rất nhiều, và được dán ngay trước UBND xã, song các cô gái vẫn ôm mộng xuất ngoại.

 

Có một thực tế là đã xảy ra rất nhiều bi kịch và nước mắt xung quanh chuyện lấy chồng ngoại.

 

Trong đám cưới của cô Y. ở thôn Quần Mục, không ít người đã nhỏ lệ xót thương khi chứng kiến cảnh mọi người phải xốc nách chú rể khiêng đi vì "cụ" bị bại liệt. Rồi cô D. nhắm mắt theo một anh chồng nghiện, từng có tiền án tiền sự, đã từng có 4 đời vợ, một với người trong nước, 3 với các cô gái Việt.

 

Nhiều ông bố bà mẹ vì mong con được lấy chồng ngoại đã "cắm" sổ đỏ nhà cửa, bán trâu bò, vay nặng lãi… 

 

Tuy nhiên, theo ông Tiến, đến thời điểm này, chỉ có chừng 10% các cô gái xuất ngoại lấy chồng đạt được mục đích kinh tế, lại có cuộc sống hạnh phúc, phần lớn là gặp bi kịch. Rất nhiều ông bố bà mẹ vẫn đang ngồi trên đống lửa vì cả năm trời không liên lạc được với con gái.

 

Nhiều cô gái ở đây biết rằng lấy chồng ngoại không khác gì đem cuộc đời mình ra đánh xổ số.  Vậy tại sao các cô gái vẫn nuôi mộng lấy chồng ngoại?

 

Theo ông Tiến, mục tiêu của các cô gái không phải được sống hạnh phúc với chồng, mà để được sống ở xứ lạ giống như trên phim ảnh. Do đó, chồng có già cả, xấu xí thế nào với họ cũng không quan trọng.

 

Để lấy được vợ Việt, những ông chồng ngoại này phải bỏ ra một số tiền rất lớn, hàng chục ngàn USD. Mất nhiều tiền, sợ mất vợ, nên họ thường nhốt vợ trong nhà, giữ hết các giấy tờ tùy thân, không cho đi làm.

 

Những cô gái Việt lấy chồng ngoại thường có toan tính khác, nên không thể chấp nhận cuộc sống như một oshin, do đó, chỉ sống với chồng thời gian ngắn, họ liền tìm cách bỏ chồng, hoặc trốn ra ngoài kiếm việc làm.

 

Qua thống kê, có đến 80% các cô gái lấy chồng Hàn Quốc đều bỏ chồng chỉ trong thời gian rất ngắn. Có nhiều vụ mấy ông chồng nước ngoài quỳ lạy van xin các cô gái Việt đừng bỏ mình, song các cô nhất định cứ bỏ, cứ tìm cách trốn.

 

 

 

Họ thường trốn ra ngoài tìm việc làm trong các nhà máy, xí nghiệp, hoặc làm thuê trong các cửa hàng. Phần lớn các cô gái Việt làm việc trong các tiệm uốn tóc, làm móng tay, móng chân…

 

Khi kiếm được vài trăm triệu, có được lưng vốn thì họ ra đầu thú với cảnh sát, sẽ được trục xuất về nước.

 

Có một thực tế, hiện có rất nhiều cô gái từng lấy chồng nước ngoài, sau khi có tiền về nước sống hoang phí, ăn mặc lố lăng, quần áo xẻ trên xẻ dưới, tóc tai, móng tay móng chân nhuộm xanh nhuộm đỏ… đã ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa xóm làng. Lớp trẻ lớn lên, thấy sự hào nhoáng đó lại tiếp tục đua đòi lấy chồng ngoại.

 

Có một chuyện khá bức xúc với chính quyền xã, đó là hiện tượng sinh con thứ ba diễn ra rất nhiều trong xã. Mỗi năm, có đến cả chục trường hợp sinh con thứ ba. Những trường hợp này thường rơi vào các gia đình đã gả hết con cho người nước ngoài và những gia đình sinh toàn con trai, muốn kiếm thêm một cô con gái để gả ra nước ngoài những mong đổi đời.

 

Điều buồn hơn là nơi đây đã xuất hiện những đứa con lai không có bố. Cuộc đời của những đứa trẻ này sẽ rất thiệt thòi và nó chính là hậu quả lâu dài của những cuộc tình toan tính.

 

Phạm Ngọc Dương


(http://www.vtc.vn/phongsukhampha/doa-kien-ubnd-xa-vi-thieu-gai-chua-chong/214493/index.htm)

Quê hương ơi sao vẫn còn xa

Ngày xưa, nghe bài hát này chỉ cảm ti tí :D phê. Bây giờ 30 năm xa quê, sao phê quá. Thấm đến tận cùng nổi nhớ quê nhà.

Huế Sài Gòn Hà Nội - Khánh Ly and Trịnh Công Sơn
"Huế Sài Gòn Hà Nội Quê hương ơi sao vẫn còn xa. Huế Sài Gòn Hà Nội bao nhiêu năm sao vẫn thờ ơ. Việt Nam ơi còn bao lâu những con người ngồi nhớ thương nhau..."
http://www.youtube.com/watch?v=UZQ2bWPofwE

Saturday, June 06, 2009

Good luck, my sweet daughter.

Ngày mai, con gái bắt đầu thi cuối khóa (final exam). Sáng nay, tính
text cho con để chúc con may mắn trong kỳ thi. Nhưng nghĩ tới, nghĩ
lui, rồi lại thôi. Thôi thì cứ như mấy khóa trước vậy. Im lặng. Nhưng,
con yêu, chắc chắn một điều bố luôn nhớ đến và cầu nguyện cho con.

Nhớ khóa học mùa Thu đầu tiên, con thi final cuối tuần, không về nhà.
Bố ngạc nhiên bảo mẹ: "Ngày xưa, anh đâu có thi final cuối tuần đâu?".
Đúng là xưa khác, nay khác. Trường bố khác trường con.

Xin Chúa gìn giử nâng đở con.

Friday, June 05, 2009

Nhà giáo đi bên lề trái: Thạc sĩ Nguyễn Thị Bích Hạnh

Trích từ http://dantri.com.vn/c20/s20-328622/cho-thoi-viec-nu-thac-si-xuyen-tac-dao-duc-nha-giao.htm:

Cho thôi việc nữ Thạc sĩ xuyên tạc đạo đức nhà giáo

(Dân trí) - Ngày 1/6, Sở GD-ĐT tỉnh Quảng Nam đã công bố quyết định cho thôi việc đối với một Thạc sĩ đang công tác trường THPT chuyên Nguyễn Bỉnh Khiêm. Người bị buộc thôi việc là Thạc sĩ Nguyễn Thị Bích Hạnh (28 tuổi), giáo viên giảng dạy môn Văn tại Trường THPT chuyên Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trong quá trình công tác, cô giáo này đã lợi dụng bục giảng của nhà trường để nói những điều không tốt, không chính xác về nghề giáo, về Đảng và chủ trương pháp luật của Nhà nước.

Quyết định thôi việc nêu rõ: Bà Nguyễn Thị Bích Hạnh đã vi phạm nghiêm trọng trong việc xuyên tạc đạo đức nhà giáo; sử dụng bục giảng làm nơi tuyên truyền những nội dung trái với quan điểm của chính sách Nhà nước; xuyên tạc đường lối của Đảng, chủ trương pháp luật của Nhà nước, vi phạm quan điểm nội dung giáo dục trong việc cập nhập khai thác, truyền bá trang web phản động, phản giáo dục.

Thạc sĩ Nguyễn Thị Bích Hạnh tốt nghiệp Đại học và bảo vệ luận án Thạc sĩ văn tại Trường Đại học Đà Lạt. Tháng 9/2007, cô Hạnh được nhận vào giảng dạy tại Trường chuyên Nguyễn Bỉnh Khiêm theo diện thu hút nhân tài của tỉnh Quảng Nam.

Tường Vy

Đọc thêm:

Thursday, June 04, 2009

Tưởng niệm 20 năm cuộc thảm sát Thiên An Môn (Tiananmen Square Massacre)



Hai mươi năm trước, với khát vọng độc lập, tự do, dân chủ, và nhân quyền, nhân dân thuộc các nước trong khối Xã Hội Chủ Nghĩa từ Đông Âu sang Á Châu đã dấy lên một cuộc cách mạng. Một cuộc cách mạng làm thay đổi bộ mặt thế giới.

Ngày 4 tháng Sáu năm 1989, thanh niên sinh viên học sinh và người lao động Trung Hoa đã đổ máu trên công trường Thiên An Môn. Ngày 9 tháng 11 năm 1989, bức tường Bá Linh sụp đổ, mở đầu cho hai miền nước Đức thống nhất trong hòa bình. Hai năm sau, 1991, Liên Xô, nước Xã Hội Chủ Nghĩa đầu tiên chính thức giải tán.

BBC News - June 4, 1989, Tiananmen Square Massacre
http://www.youtube.com/watch?v=XJBnHMpHGRY

Tiananmen Square - Holding Up A Tank
http://www.youtube.com/watch?v=O4xtkpO7ZqU


Trần Trung Đạo: Từ Buổi Chiều Trên Nghĩa Địa Hàng Dương

Vừa ăn trưa, vừa đọc blog :D Bài viết này của Trần Trung Đạo hay và đúng. Tôi đồng ý với tác giả Trần Trung Đạo, Côn Đảo là di tích lịch sử của cả dân tộc, là chứng tích của tất cả những người Việt yêu nước. Côn Đảo không phải của riêng ai hay của bất kỳ đảng phái nào.

Trích từ trang nhà của Trần Trung Đạo: Từ Buổi Chiều Trên Nghĩa Địa Hàng Dương:

Trong nghĩa địa Hàng Dương, bên chiếc cầu đá phía bên phải dinh chúa đảo, trước những xà lim chật hẹp, một ngày không xa, các thế hệ Việt Nam sẽ đến đó, không phải để nghe kể công, nghe tuyên truyền mà đến để im lặng cúi đầu tưởng niệm các anh hùng dân tộc.

Họ là ai? Họ là những đảng viên Việt Nam Quang Phục Hội, Phong trào Đông Du, Phong trào Duy Tân, Tân Việt Cách mạng Đảng, Việt Nam Quốc dân Đảng, Đại Việt Quốc dân Đảng, Đại Việt Dân chính, Dân Xã Đảng, Đảng Lập hiến, Đại Việt Duy dân và nhiều tổ chức, phong trào không Cộng sản khác.

Họ là ai? Họ là tín đồ các tôn giáo, nhất là Cao Đài và Hòa Hảo, hai tôn giáo được ra đời tại miền Nam, có truyền thống kiên quyết chống cả thực dân lẫn Cộng sản.

Nếu họ đã từng là đảng viên Cộng sản thì sao? Không sao cả. Như tôi đã có dịp viết vài lần trên diễn đàn này, việc tham gia vào đảng Cộng sản của một số người Việt Nam, chủ yếu là để được tổ chức hóa nhằm mục đích hợp đồng chiến đấu, đạt đến chiến thắng dễ dàng hơn chứ không phải vì tin vào chủ nghĩa Cộng Sản. Ngày đó, vì điều kiện giao thông khó khăn, núi non cách trở, sự phát triển của các đảng phái chống thực dân ít nhiều bị giới hạn bởi các đặc tính địa phương, bà con giòng họ, hoàn cảnh trưởng thành. Nếu họ sinh ra ở Quảng Nam họ sẽ gia nhập Việt Nam Quốc dân Đảng, sinh ra ở Quảng Trị họ sẽ gia nhập Đại Việt, sinh ra ở Cần Thơ, Vĩnh Long, An Giang họ sẽ gia nhập Dân xã Đảng. Đó là trọng điểm của các đảng phái chống Pháp trong những thập niên đầu của thế kỷ 20. Ông bà chúng ta có súng dùng súng, có gậy dùng gậy, và trong nhiều trường hợp chỉ là những bàn tay không gầy yếu.


Đọc thêm ở đây.

Wednesday, June 03, 2009

Tạm biệt blog 360.yahoo.com

Cất blog 360.yahoo.comprofiles.yahoo.com để lưu trử :) Xem ra Yahoo chọn profiles.yahoo.com là mạng xã hội chính thức để cạnh trạnh với Google Blogspot, Microsoft Windows Live Space, Wordpress, Twitter,... Profiles.yahoo.com là nối tiếp của 360.yahoo.com. Như đã nói ở entry trước, tôi không dùng 360 plus. Không phải sợ người ta quản lý hay khó dể. Thực ra, 360 plus chịu sự tài phán về mặt pháp luật của Singapore chứ không phải của CHXHCNVN, nên không có gì đáng ngại. Thứ nhất 360 plus còn nhiều lổi. Thứ hai, tôi cũng như một bạn blog khác đã viết, nó màu mè hoa lá cành. Thứ ba: với tình hình kinh tế hiện nay, liệu tổng công ty Yahoo có để cho Yahoo Việt Nam tiếp tục điều hành sản phẩm 360 plus? Nếu 360 plus không mang lại lợi nhuận từ quảng cáo thì không lý gì Yahoo phải nuôi cả hai nhóm blog là profiles và 360 plus.

Dọn qua Multiply chỉ vì nhiều bạn blog từ 360 qua đó. Mình muốn trao đổi với bạn ở Multiply, nên phải có một trương mục không thể viết tự do như ở Blogspot hay Wordpress. So với các nhà cung cấp dịch vụ blog hàng đầu khác như Blogspot của Google, Facebook, Wordpress,... Multiply còn nhiều vấn đề. Trang web không tự động cập nhật. Nếu mở nhiều tab trong cùng một trình duyệt, mỗi tab cho mỗi multiply user, ý kiến viết cho người này bị gắn vào cho người kia. RSS feed không có. Tốc độ chậm. Gửi bài viết mới bằng thư điện tử, lúc được, lúc không. Không biết Multiply version 4 có khá không? Và quan trọng hơn nửa Multiply có sống sót trong cơn khủng hoảng kinh tế hiện nay không?

Vì vậy, quanh đi quẩn lại, tôi lại về cái blog đầu tiên ở Blogspot. Ta về ta tắm ao ta. Rảnh rảnh vô Facebook và Multiply tán dóc với bạn blog :D