Friday, August 06, 2010

CÔNG GIÁO KHÔNG THAM GIA CHÁNH TRỊ ?

Hà Minh Thảo


Ngày 21.05.2010, Radio Vatican truyền thanh bài 'Đức Thánh Cha khuyến
khích Giáo dân dấn thân chính trị' bằng kêu gọi các tín hữu Công giáo
dấn thân trong lãnh vực chính trị và chứng tỏ rằng đức tin giúp họ đọc
các thực tại một cách mới mẻ và biến đổi chúng. Đức Thánh Cha Biển Đức
16 khẳng định rằng: Giáo hội không có sứ mạng huấn luyện chuyên môn
cho các nhà chính trị. Đã có nhiều tổ chức khác theo đuổi mục đích ấy.
Sứ mạng của Giáo hội là « đưa ra một phán đoán luân lý cả về những
điều liên quan tới lãnh vực chính trị, khi các quyền căn bản của con
người và phần rỗi các linh hồn đòi hỏi.. và Giáo hội chỉ sử dụng những
phương thế phù hợp với Tin Mừng và thiện ích của mọi người, theo thời
đại và hoàn cảnh khác nhau » (GS, 76).

Trong khi đó, lang thang trên xa lộ thông tin, chúng tôi đọc được câu sau:

« Mới đây trên DVD Thúy Nga Paris By Night, MC Nguyễn Ngọc Ngạn đã có
cuộc phỏng vấn với vị Tân Giám mục người Việt tại Toronto (Canada) là
Đức cha Vincent Nguyễn Mạnh Hiếu. Trong cuộc phỏng vấn này, Đức cha
Hiếu có nói rằng: 'Người Công giáo không làm chính trị!' »

Nếu chúng ta thông biết Hiến Chế Vui mừng và Hy vọng (Gaudium Et Spes)
và Giáo luật thì hai lời nói trên hoàn toàn không có gì mâu thuẫn, xin
mời chúng ta cùng phân tích.

I. KHÁI NIỆM VỀ CHÁNH TRỊ.

A. Công dân Việt-Nam.

Mọi người trong chúng ta khi sinh ra đã có quốc tịch Việt-Nam và là
công dân nước Việt, có nhiệm vụ tôn trọng luật lệ Việt-Nam và được
luật lệ Việt-Nam bảo vệ. Tham gia sinh hoạt chánh trị là quyền bẩm
sinh của mỗi công dân.

B. Hành vi Chánh Trị.

Trên Quê Hương Việt-Nam, người cộng sản gieo vào đầu óc đồng bào một
hiểu biết sai lầm về chánh trị, luôn phải sợ hãi khi nghe đến từ
'chính trị' hay khi không ưa ai thì cứ gắn cho người đó 'làm chánh
trị' một cách vô trách nhiệm và bất công.

Ở đây, chúng tôi đề nghị chúng ta đơn giản vấn đề như thế nầy:

Chế độ cai trị nào cũng cũng tự hào là Dân Chủ, tức là dân làm chủ Đất
Nước. Như vậy, Chủ quyền Đất Nước thuộc về toàn dân, tức mỗi công dân
sở hữu 1/56.252.543 Chủ quyền Đất Nước (đây là số cử tri ghi danh bầu
cử Quốc hội khóa 2007-2011). Thí dụ, quyền Lập pháp được giao cho Quốc
hội. Trong tòa nhà Quốc hội cũng như việc thảo luận và biểu quyết dự
luật rất không thể thực hiện được, nên phải tổ chức bầu cử 493 đại
biểu.

Khi tham gia tuyển cử, mỗi công dân dùng lá phiếu, tương đương với
1/56.252.543 quyền làm luật của mình, chọn và ủy quyền cho các ứng cử
viên trong đơn vị mình đầu phiếu để, khi đắc cử, trở thành đại biểu,
thay mình làm luật tại Quốc hội. Rất tiếc, vì số ứng cử viên bị giới
hạn bởi Mặt trận Tổ quốc khiến vô số người tài đức không thể hiện diện
tại Nghị trường.

Trong trường hợp nầy, những cử tri làm một hành vi chính trị công dân.
Tại Quốc hội, người đại biểu cần phải thảo luận và biểu quyết các dự
luật theo như họ đã hứa với cử tri. Đó là một hành vi chánh trị Lập
pháp cho quốc gia, nhằm phụng sự Công Ích, chứ không vì mị dân hay
đảng phái.

II. TÍN HỮU CÔNG GIÁO.

Người công dân Việt-Nam trở thành người Công giáo Việt-Nam sau khi tự
do xin lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy. Kết quả tức thì, người công dân có
quyền có những hành vi chánh trị dựa theo những qui chiếu do Phúc Âm
Đức Kitô, Giáo huấn xã hội Công giáo và Giáo Luật mang lại.

Ngày 05.07.2003, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong sứ điệp gởi cho
tổ chức Vatican 'Centesimus Annus-Pro Pontifice', đã nhắc người giáo
dân: « Những hoàn cảnh thê thảm thế giới ngày nay phải chịu chứng tỏ
tính thời sự thường trực của Học thuyết Xã hội của Giáo hội và sự cần
thiết khởi sự từ một viễn ảnh đúng, tập trung vào sự thật con người,
một sự thật do lý trí khám phá và được Tin Mừng Chúa Giêsu củng cố và
cổ võ giá trị chân chính và ơn gọi xã hội tự nhiên của con người ».

Về vấn đề này, Đức Gioan Phaolô II giải thích rằng Giáo huấn Xã hội
của Giáo hội cống hiến những chỉ dẫn cho 'sự cổ võ những nhân quyền,
sự bảo vệ gia đình, sự phát triển những cơ chế dân chủ đích thực và
góp phần chính trị, một nền kinh tế phục vụ con người, một trật tự
quốc tế mới bảo đảm công lý và hoà bình, và một thái độ trách nhiệm
đối với tạo vật.'

1. Tin Mừng Đức Kitô cần được chấp nhận như là Đại Hiến chương của
những Kitô-hữu hợp thành Giáo hội Công giáo, gồm bốn sách đầu tiên của
Tân Ước theo các Thánh Sử Matthêu, Máccô, Luca và Gioan, có tính ưu
việt trên hết, vì là những chứng từ tuyệt vời về cuộc đời và lời giáo
huấn của Ngôi Lời nhập thể, Đấng Cứu Độ chúng ta.

Công đồng Vaticanô II đã coi các sách Tin Mừng như những chứng từ
thành văn của các Tông Đồ hay của những vị đã sống bên các Tông Đồ ghi
chép lại do ơn linh hướng của Thánh Thần và đã long trọng khẳng định
lịch sử tính của các sách Tin Mừng vì trung thành truyền lại những gì
Đức Giêsu thực sự đã làm và đã dạy, luôn truyền đạt cho chúng ta những
điều chân thật về Đức Giêsu. Phúc Âm vừa là chứng từ về Đức Giêsu lịch
sử, vừa là chứng từ về niềm tin của các Tông Đồ sau Chúa phục sinh.

2. Giáo huấn xã hội Công giáo.

Ngày 01.05.2000, Lễ kính Thánh Giuse Thợ, với trách vụ Chủ tịch Hội
đồng Giáo Hoàng Công lý và Hoà bình, Đức cha Phanxicô Xaviê Nguyễn văn
Thuận, Tổng Giám mục hiệu tòa Vadesi, đã ký ban hành 'Sưu Tập những
Bản Văn của Huấn Quyền về Học thuyết Xã hội Công giáo'. Trong đó, Đức
cha đã thu nhặt từ các văn kiện đang có trong kho tàng Giáo huấn về xã
hội và viết thành 11 chương về các đề tài: Bản chất Học thuyết Xã hội
Công giáo, Con Người, Gia Đình, Trật tự Xã hội, Vai trò Nhà Nước, Kinh
tế, Lao Động và Tiền Lương, Sự Nghèo đói và Đức Bác ái, Môi trường,
Cộng Đồng Quốc tế và Chương Kết. Văn kiện này được dùng làm căn bản
cho việc hoàn thành « Toát yếu về Học thuyết Xã hội Giáo hội ».

Qua 'Lời Giới Thiệu' của Đức Hồng y Angelo Sodano, Quốc vụ khanh Tòa
Thánh, gởi Đức Hồng y Renato Raffaele Martino, Chủ tịch Hội đồng Giáo
Hoàng Công lý và Hoà bình, đã viết: « … 2. Tài liệu này cũng trình bày
giá trị của Học thuyết Xã hội Công giáo như một phương tiện để rao
giảng Tin Mừng (x. Centesimus Annus, số 54), vì tài liệu này đặt con
người và xã hội trong mối tương quan với ánh sáng Tin Mừng. Những
nguyên tắc của Học thuyết Xã hội Công giáo đặt nần tảng trên luật tự
nhiên, vì thế được xác nhận và cũng cố trong niềm tin của Giáo hội nhờ
Tin Mừng của Đức Kitô… »

Khi khai mạc một cuộc hội thảo quốc tế về 'Chính trị, hình thức đòi
hỏi của đức ái' (La politique, forme exigeante de la charité) ngày
20.06.2008 qui tụ khoảng 60 chuyên viên tại Roma, Đức Hồng y Renato R.
Martino nói: « Giáo hội không làm chính trị, nhưng có một học thuyết
về chính trị, hầu có thể chu toàn sứ mệnh của mình, để phục vụ công
thiện công hảo… Duy trì và cổ võ nơi lương tâm mọi người, ý thức về
phẩm giá siêu việt của nhân vị: đó là sự đóng góp đầu tiên và cốt yếu
mà Giáo hội cống hiến cho cộng đồng chính trị. Trong 'sứ điệp' của Đức
Ki-tô do Hội thánh loan truyền, cộng đồng nhân loại có thể tìm thấy
sức mạnh để yêu tha nhân như chính mình, để chiến đấu chống lại tất cả
những gì phản nghịch sự sống, để chấp nhận sự bình đẳng căn bản giữa
mọi người, để tranh đấu chống lại mọi hình thức kỳ thị, để vượt qua
một nền luân lý hoàn toàn cá nhân… Nếu chính trị có tham vọng hành
động như Thiên Chúa không hiện hữu thì cuối cùng chính trị sẽ trở nên
cằn cỗi và mất ý thức về tính bất khả xâm phạm của nhân vị. »

Đề cập về đa nguyên dân chủ và những giá trị căn bản, Đức Hồng y đã
nhắc lại rằng những quyền lợi mang tính cá nhân và ích kỷ, ở ngoài
khung cảnh sự thật, tình liên đới và trách nhiệm, sẽ phá hủy nền dân
chủ và đưa vào những yếu tố phân tán và đối đầu nhau. Vào một thời đại
như thời đại chúng ta bị ghi dấu bởi những thái độ phản chính trị. Một
nền dân chủ chân chính phải cần đến sự trợ lực của tâm hồn, một giá
trị vô điều kiện của nhân vị hướng về tha nhân và Thiên Chúa trong sự
thật và sự thiện.

3. Giáo Luật.

Tông hiến "Sacrae Disciplinae Leges", được Đức Gioan Phaolô II ký ngày
25.01.1983 để ban hành Bộ Giáo Luật hiện hành.

… Thực vậy, Chúa Kitô không muốn phá hủy gia sản kỳ cựu của lề luật và
các tiên tri đã được thành hình dần dần qua giòng lịch sử và kinh
nghiệm của dân Chúa trong Cựu Ước. Đúng ra, Ngài đã kiện toàn nó (xem
Mt 5,17), để cho gia sản ấy trở thành, dưới một hình thức mới mẻ và
cao thượng hơn, một phần của gia sản Tân Ước…

… Bộ Giáo Luật này hoàn toàn phù hợp với bản chất của Giáo hội, cách
riêng đã được trình bày do giáo huấn chính thức của Công đồng Vatican
II xét trong toàn bộ và nhất là trong học thuyết về Giáo hội. Thực
vậy, phần nào Bộ Giáo Luật mới có thể được coi như một cố gắng phi
thường để diễn dịch đạo lý của Công đồng về Giáo hội ra ngôn từ pháp
lý…

Trong điều 207 Giáo Luật, số 1 phân biệt tín hữu Giáo dân với Giáo sĩ
và Tu sĩ như sau: « Do sự thiết lập của Thiên Chúa, giữa các tín hữu
trong Giáo hội, có các thừa tác viên có chức thánh, trong luật được
gọi là các Giáo sĩ; còn các người khác được gọi là Giáo dân. »

Số 2 của điều luật trên phân biệt Giáo dân với Tu sĩ như sau: « Trong
cả hai thành phần vừa nói, có những tín hữu tận hiến cho Thiên Chúa
một cách đặc biệt và đóng góp vào sứ mệnh cứu rỗi của Giáo hội bằng
việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm qua lời khấn hoặc qua mối giây
ràng buộc thánh thiện khác, được Giáo hội công nhận và phê chuẩn. Hàng
ngũ của họ tuy không thuộc về cơ cấu phẩm trật của Giáo hội, nhưng
thực sự thuộc về đời sống và sự thánh thiện của Giáo hội. »

Như vậy:

- Giáo sĩ là tín hữu có chức thánh như Phó tế, Linh mục và Giám mục.
Nhưng chỉ có Linh mục và Giáo mục được gọi là tư tế thừa tác và được
quyền Tế Lễ. Phó tế là những thừa tác viên được truyền chức thánh để
lo công tác phục vụ trong Giáo hội.

- Tu sĩ là người tín hữu nam nữ đã quảng đại đáp lời mời gọi của Chúa
để tự nguyện khấn và sống ba lời khuyên Phúc Âm (khiết tịnh, khó nghèo
và vâng phục) hoặc có giây ràng buộc thánh thiện khác được Giáo hội
công nhận và phê chuẩn. Đây là bậc sống thánh hiến dành cho những
người có ơn gọi sống những linh đạo hay đặc sủng đặc biệt của nhiều
Dòng Tu hay Tu Hội khác nhau.

- Giáo dân được Giáo Luật định nghĩa theo tinh thần Hiến Chế Tín Lý về
Giáo hội 'Aùnh Sáng Muôn Dân' số 31, như sau: « Danh hiệu Giáo dân, có
nghĩa là tất cả các Kitô hữu không thuộc thành phần chức thánh, hay
bậc tu trì được Giáo hội công nhận, nghĩa là các Kitô hữu đã được phép
Rửa Tội sáp nhập vào thân thể Chúa Kitô, được nhập tịch Dân Chúa, được
trở thành người tham gia, theo cách của mình, vào chức vụ tư tế, chức
vụ rao giảng Lời Chúa, và chức vụ vương giả của Chúa Kitô, là những
người thi hành sứ mệnh của toàn dân Kitô hữu trong Giáo hội và giữa
trần thế theo nhiệm riêng của mình. » Do đó, chỉ Giáo dân là những
người có phận vụ không ai có thể thay thế trong môi trường chính
trị-xã hội.

Như vậy, Giáo hội thật rõ ràng: Giáo sĩ không phận vụ trong môi trường
chính trị-xã hội. Do đó, Giáo Luật ấn định:

Điều 285: (1) Các Giáo sĩ nên xa tránh tất cả những gì không xứng hợp
với bậc mình, theo như những qui định của luật địa phương.

(2) Giáo sĩ nên tránh tất cả những gì, cho dù không xấu xa, nhưng xa
lạ không thích hợp với bậc Giáo sĩ.

(3) Cấm các Giáo sĩ đảm nhận những chức vụ công quyền có kèm theo việc
hành sử quyền bính dân sự.

(4) Nếu không được phép của Bản Quyền riêng, Giáo sĩ không được nhận
làm Quản Lý những tài sản thuộc các giáo dân hoặc những chức vụ trần
thế kèm theo nghĩa vụ phải kế toán sổ sách; cũng không được làm bảo
chứng cho dù dựa vào tài sản riêng của mình nếu không tham khảo ý kiến
của Bản Quyền riêng; phải tránh không nên cam kết những khế ước bảo
lãnh trả một món nợ mà không định rõ căn nguyên.

Điều 287: (1) Các Giáo sĩ hãy tận lực cổ võ duy trì hòa bình và hòa
đồng giữa mọi người, dựa trên nền tảng công bằng.

(2) Các Giáo sĩ không được tham gia tích cực vào các đảng phái chính
trị, hoặc dự phần lãnh đạo trong các nghiệp đoàn, trừ khi nào, theo
phán đoán của nhà chức trách có thẩm quyền của Giáo hội, việc bảo vệ
quyền lợi của Giáo hội và cổ võ công ích đòi hỏi như vậy.

III. GIÁO DÂN DẤN THÂN CHÍNH TRỊ.

1.- Đức Phaolô VI, Giám mục Giáo hội Công giáo và các Giám mục khác,
họp Công Đồng Chung Vaticanô II, ngày 07.12.1965, ký ban hành Hiến Chế
'Mục Vụ Về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay Gaudium Et Spes', chúng ta
đọc nơi số 76:

Cộng đoàn chính trị và Giáo hội. Điều rất quan trọng là cần nhận thức
chính xác về mối tương quan giữa cộng đoàn chính trị và Giáo hội, nhất
là trong một xã hội gồm nhiều thành phần. Cũng cần phải phân biệt minh
bạch giữa những hành động của các tín hữu hoặc cá nhân hoặc đoàn thể
với danh nghĩa công dân dưới sự hướng dẫn của lương tâm Kitô giáo và
những hành động của các tín hữu khi họ nhân danh Giáo hội và hợp nhất
với các vị chủ chăn của họ.

Vì lý do chức vụ và thẩm quyền của mình, Giáo hội không cách nào bị
đồng hóa với một cộng đoàn chính trị, và cũng không hề cấu kết với bất
cứ hệ thống chính trị nào vì Giáo hội vừa là dấu chỉ vừa là đảm bảo
cho tính cách siêu việt của con người.

Cộng đoàn chính trị và Giáo hội, mỗi bên với lãnh vực riêng của mình,
đều độc lập và tự trị. Tuy nhiên, dầu dưới danh hiệu khác nhau, cả hai
cũng đồng phục vụ cho con người trong sứ mệnh cá nhân và xã hội. Tùy
theo hoàn cảnh và địa phương, nếu cả hai càng duy trì được sự cộng tác
lành mạnh, thì cả hai càng phục vụ lợi ích của con người một cách hữu
hiệu hơn. Bởi vì con người không phải chỉ thu hẹp trong nhãn giới trần
gian. Nhưng tuy sống trong lịch sử nhân loại, con người vẫn mang một
sứ mệnh trường cửu. Được thiết lập trong tình yêu của Chúa Cứu Thế,
Giáo hội có sứ mệnh làm cho công bằng và bác ái lan tràn trong mỗi dân
tộc và giữa các dân tộc. Khi rao giảng chân lý Phúc Âm và lấy giáo lý
và chứng tá của cuộc sống các Kitô hữu soi sáng mọi lãnh vực của sinh
hoạt con người, Giáo hội cũng tôn trọng và cổ võ tự do chính trị cũng
như trách nhiệm của các công dân.

Và được sai đi để loan báo Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế cho mọi người,
các Tông Đồ và các Đấng kế vị cũng như những cộng tác viên của các
ngài đều dựa vào quyền lực của Thiên Chúa để làm việc tông đồ; còn
Thiên Chúa thường tỏ rõ sức mạnh của Phúc Âm trong chính sự yếu hèn
của các chứng nhân. Vậy bất cứ ai hiến thân phục vụ lời Chúa đều phải
dùng đến đường lối cũng như phương thế riêng của Phúc Âm. Những đường
lối và phương thế này khác biệt ở nhiều điểm với đường lối và phương
thế của trần gian.

Thực thế, các thực tại trần thế và những thực tại siêu phàm nơi con
người đều liên kết mật thiết với nhau. Giáo hội cũng xử dụng các thực
tại trần thế tùy mức độ mà sứ mệnh riêng của mình đòi hỏi. Tuy nhiên,
Giáo hội không cậy nhờ vào những đặc ân của thế quyền. Hơn thế nữa,
Giáo hội cũng sẽ từ chối việc xử dụng một số quyền lợi đã được hưởng
một cách chính đáng khi thấy rằng việc xử dụng những quyền lợi đó làm
cho người ta nghi ngờ về lòng thành thực muốn làm chứng nhân của mình,
hoặc trước những hoàn cảnh mới đòi hỏi phải xử sự cách khác. Tuy
nhiên, bất cứ ở đâu và bất cứ thời nào, Giáo hội cũng phải được tự do
rao giảng đức tin, truyền bá học thuyết xã hội của mình cũng như được
dễ dàng chu toàn sứ mệnh của mình giữa loài người. Giáo hội cũng phải
được quyền nói lên nhận định luân lý của mình về cả những vấn đề liên
quan đến lãnh vực chính trị khi quyền lợi căn bản của con người hay
phần rỗi các linh hồn đòi hỏi. Nhằm mục đích trên, Giáo hội xử dụng
mọi phương tiện và chỉ những phương tiện nào phù hợp với Phúc Âm và
lợi ích của mọi người tùy theo thời đại và hoàn cảnh khác nhau.

Trung thành theo sát Phúc Âm và thi hành sứ mệnh của mình trong thế
giới, Giáo hội phải cổ võ và nâng cao bất cứ điều gì là chân, thiện,
mỹ trong cộng đoàn nhân loại. Làm như thế tức là Giáo hội xây dựng hòa
bình cho con người để làm vinh danh Thiên Chúa.

Tinh thần của số 76 này đã được Đức Gioan Phaolô II nhắc lại nhiều lần
và Đức Biển Đức XVI nói với các Giám mục Việt-Nam trong các lần tiếp
kiến chung mỗi dịp Ad Limina trong các lần cuối vừa qua [hy vọng chúng
ta sẽ có dịp xem lại trong một lần khác.]

Đối với Giáo dân, điều 76 này nhắc: Giáo hội Công giáo, vì chức vụ và
thẩm quyền của mình, không thể bị đồng hóa với một cộng đoàn chính trị
(Nhà nước, chính đảng…) và không hề cấu kết với bất cứ chế độ chính
trị nào vì Giáo hội vừa là dấu chỉ vừa là đảm bảo cho tính cách siêu
việt của con người, được Thiên Chúa tạo dựng giống hình ảnh Người và
được cứu chuộc bởi sự chết và sống lại của Ngôi Hai Thiên Chúa. Nhưng
vì Giáo hội và Nhà nước đều phục vụ cho con người trong sứ mệnh cá
nhân và xã hội, nên nếu cả hai càng duy trì được sự cộng tác lành
mạnh, thì cả hai càng phục vụ lợi ích của con người một cách hữu hiệu
hơn. Tuy sống trong lịch sử nhân loại, con người vẫn mang một sứ mệnh
trường cửu.

Khi dấn thân chính trị, Giáo dân có những qui chiếu do Phúc Âm Đức
Kitô và Giáo huấn xã hội Công giáo thêm vào các luật lệ Việt-Nam.
Người Giáo dân không cần xưng danh tôn giáo, tinh thần phục vụ và khả
năng của mình mới là điều kiện để đồng bào, cử tri tín nhiệm chúng ta.

2.- Một Kinh nghiệm.

Ngày 01.04.1967, Hiến pháp Đệ nhị Cộng hòa Việt-Nam được ban hành với
các đặc điểm:

- Ba cơ quan Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp được phân nhiệm và phân
quyền rõ rệt. Sự hoạt động của ba cơ quan công quyền được phối hợp và
điều hòa để thực hiện trật tự xã hội và thịnh vượng chung trên căn bản
Tự Do, Dân Chủ và Công Bằng Xã Hội (Điều 3).

- Quyền Tư pháp được ủy nhiệm cho Tối cao Pháp viện và được hành xử
bởi các Thẩm Phán xử án (Điều 76). Tối cao Pháp viện có thẩm quyền
giải thích Hiến Pháp, phán quyết về tiùnh cách hợp hiến hay bất hợp
hiến của các đạo luật, sắc luật; tính cách hợp hiến và hợp pháp của
các sắc lệnh, nghị định và quyết định hành chánh (Điều 81 khoản 1).
Nhờ thế, giới cầm quyền không thể hình thành một Hiến Pháp với những
điều khoản đầy hứa hẹn dân chủ, pháp trị, nhưng, trong thực tế, Quốc
hội biểu quyết các đạo luật bất hợp hiến hay Chính phủ ban hành các
nghị định và quyết định hành chánh bất hợp hiến hay/và bất hợp pháp
như ngày nay.

- Người dân có quyền tự do giáo dục và được hưởng 'nền giáo dục cơ bản
có tính cách cưỡng bách và miễn phí'. Nếu công dân có khả năng theo
học cao hơn mà không có phương tiện, quốc gia sẽ nâng đỡ (Điều 10).

Căn cứ vào Hiến pháp, cuộc tuyển cử Nghị sĩ Thượng nghị viện đã được
tổ chức ngày 03.09.1967. Có 48 liên danh với 480 ứng cử viên thuộc các
chánh đảng (Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Duy Dân…), tôn giáo (Cao
đài, Hòa hảo, Phật giáo, Công giáo), xã hội (quân nhân, trí thức, khoa
bảng…) hiện diện tranh cử.

Kết quả, 6 liên danh đắc cử: về đầu, liên danh 'Nông Công Binh' do cựu
Tướng Trần văn Đôn làm thụ ủy gồm các quân nhân và nghiệp đoàn viên;
liên danh Bông Lúa, do ông Nguyễn ngọc Kỷ, tín hữu Cao đài, làm thụ ủy
về hạng 5; các liên danh 'Công Ích và Công Bình Xã Hội', 'Đại Đoàn
Kết', 'Trời Việt' và 'Đoàn kết để Tiến bộ' do các ông Nguyễn văn
Huyền, Nguyễn gia Hiến, Huỳnh văn Cao và Trần văn Lắm đứng thụ ủy đều
là những Giáo dân Công giáo chiếm các hạng còn lại.

Thượng nghị viện khóa đầu tiên có 26 người Công giáo trong số 60 Nghị
sĩ, có 11 Công giáo trong số 13 luật gia trong Viện Lập pháp này. Đặc
biệt, luật sư Nguyễn văn Huyền, một nhân sĩ danh tiếng trong giới Công
giáo và giới chánh trị, một chánh khách hiếm hoi của nền Đệ Nhị Cộng
hòa, đã được bầu vào chức Chủ tịch Thượng nghị viện. Ông đã xây dựng
uy tín cho Thượng nghị viện, xứng đáng với lòng kính nể của người dân
Việt trong việc phát biểu về các vấn đề: tướng lãnh tham nhũng (ngày
20.04.1970), chống độc diễn của liên danh Nguyễn văn Thiệu - Trần văn
Hương (ngày 22.09.1971). Ngoàụi ra, chúng ta còn nhớ một tối trong
tháng 05.1970, sau khi Thượng nghị viện phản đối 'Sắc luật Thuế kiệm
ước' của Chánh phủ, Chủ tịch Nguyễn văn Huyền đã lên án sự vi hiến của
Sắc luật này trên màn ảnh Truyền hình Việt-Nam. Sau đó, nhờ tài hùng
biện của một Nghị sĩ Công giáo khác, luật sư Nguyễn văn Chức, ngày
30.06.1970, Tối cao Pháp viện tuyên bố tiêu hủy 'Sắc luật Thuế kiệm
ước' vì vi hiến.

Tuy nhiên, năm 1974, sau khi một số Nghị sĩ Công giáo thuận theo ý
Tổng thống Nguyễn văn Thiệu để tu chính cho phép ông ứng cử nhiệm kỳ
thứ ba, luật sư Nguyễn văn Huyền từ chức Nghị sĩ bằng đăng báo xin
phép cử tri đã tín nhiệm ông. Khi người Công giáo không đồng tâm, đại
sự gặp nguy.


Hà Minh Thảo

http://vietcatholic.net/News/Html/82559.htm

Sunday, August 01, 2010

HỢP TÁC HAY KHÔNG HỢP TÁC ?

Cố Lm. OP Đỗ Văn Lực/Viết ngày: 29.07.2007

Thế kỷ 20 ít có vĩ nhân nào có thể sánh với Mẹ Têrêsa Calcutta. Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Javier Pérez de Cuéllar từng vinh danh Mẹ : "Bà là Liên Hiệp Quốc. Bà là hòa bình thế giới." Năm 1985, trong Đại Sảnh Đường LHQ, trước khoảng một ngàn cử tọa nổi tiếng, ông TTK trịnh trọng tuyên bố về Mẹ : "Tôi xin giới thiệu với Quý Vị người phụ nữ quyền lực nhất thế giới." [1]

Ai cũng biết Mẹ Têrêsa là một phụ nữ nhỏ nhắn và ốm yếu. Nhưng sự nghiệp của Bà vượt ngoài sức tưởng tượng. Năm 1979, Mẹ Têrêsa đã lãnh giải Hòa Bình Nobel, "vì đã hoạt động để khắc phục sự nghèo khổ và khốn cùng, nguyên nhân đe dọa nền hòa bình." Lúc qua đời, Mẹ Têrêsa đã trối lại một gia tài kếch sù cho Giáo Hội để phục vụ nhân loại : hơn 4,000 nữ tu Thừa Sai Bác Ái, nhóm liên hiệp huynh đệ với 300 thành viên, và trên 100,000 thiện nguyện giáo dân, hoạt động trên 610 tụ điểm truyền giáo trong 123 quốc gia.[2]

Đứng trước những những công việc và thành quả lớn lao đó, ĐGH Gioan Phaolô II tự hỏi và trả lời : "Bởi đâu Mẹ Têrêsa tìm thấy sức mạnh và bền chí hiến mình hoàn toàn phục vụ tha nhân ? Trong thầm lặng, Mẹ đã tìm thấy sức mạnh trong lời cầu nguyện và chiêm niệm Đức Giêsu Kitô, Dung nhan Chí Thánh, Trái Tim Cực Thánh của Chúa."[3] Đức Hồng Y O'Connor, Tổng Giám Mục Nữu Ước, cũng công nhận : "Đối với Mẹ, tất cả quyền lực đều ở nơi Chúa Giêsu, qua Chúa Giêsu, cho Chúa Giêsu, vì Chúa Giêsu. Sức mạnh của Mẹ chính là sức mạnh của cầu nguyện , của hoàn toàn tuân phục thánh ý Thiên Chúa, của tình yêu dành tất cả cho đời sống con người."[4]

Gương Mẹ Têrêsa Calcutta có giúp GHCGVN tìm một hướng đi mới cho công cuộc phục vụ dân tộc không ? Nếu xác tín và sống như Mẹ, chúng ta có đủ ánh sáng cần thiết để chọn lựa con đường hợp tác hay không hợp tác với chế độ hiện tại không ? Làm sao có đủ sức mạnh thi hành sứ mệnh giữa bao nhiêu thách đố hôm nay ?

CẦU NGUYỆN LÀ LẼ SỐNG

Trong đêm tối trần gian, Chúa Giêsu chiếu sáng lên hình ảnh Thiên Chúa như vị Từ Phụ ân cần lắng nghe và đáp cứu con người khi họ cầu nguyện. Cầu nguyện là lẽ sống. Kết quả không phải là những ân huệ vật chất, nhưng là chính Thánh Linh (x. Lc 11:13). Có Thánh Linh là có tất cả. Chính nhờ Người, Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ và cứu độ nhân loại. Người là tất cả sức mạnh của Thiên Chúa. Thánh Linh là món quà tuyệt vời Chúa Cha ban cho những ai tin tưởng và kiên trì cầu nguyện. Nhận được món quà vô cùng quý giá này, con người sẽ có thể làm mọi sự.

Không cầu nguyện, con người không thể làm gì trên trần gian. Quả thế, "cầu nguyện là một nhu cầu sống còn. Bằng chứng, nếu không để Thánh Linh hướng dẫn, chúng ta sẽ rơi vào ách nô lệ tội lỗi. Làm sao Thánh Linh có thể trở thành 'sự sống' chúng ta, nếu lòng ta xa Người ?"[5] Không có Thánh Linh, tất cả ngôn hành đều là những trò múa rối. Không cầu nguyện, chúng ta không thể nào tồn tại, chứ đừng nói làm được việc gì. Nhưng làm sao cầu nguyện, nếu không có đức tin. Do đó, Chúa Giêsu đưa hai dụ ngôn về người bạn quấy rầy ban đêm và về người cha trần gian so sánh với Cha trên trời. Cả hai dụ ngôn đều ngầm khuyến khích chúng ta phải có lòng kiên nhẫn và tin tưởng vào lòng từ phụ của Thiên Chúa. Đúng như thánh Giacôbê nói : "Đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn." (Gc 1:3)

Trong thực tế, nhiều lúc chúng ta thiếu kiên nhẫn, vì đức tin không đủ mạnh. Nếu đức tin mạnh đủ, chúng ta có thể thưởng thức được tất cả hương vị ngọt ngào và sự sống chan hòa trong lời cầu nguyện. Có thể hiểu phần nào bản chất lời cầu nguyện, vì cầu nguyện có nhiều nét giống chiêm niệm. Mẹ Têrêsa nói : "Theo tôi, chiêm niệm không phải là im lặng trong đêm tối, nhưng là để Chúa Giêsu sống cuộc khổ nạn, tình yêu, và đầy khiêm tốn trong chúng ta, cầu nguyện với chúng ta, hiện hữu với chúng ta, thánh hóa qua chúng ta." [6]

Như vậy, cầu nguyện và chiêm niệm làm cho con người ngày càng giống và nên một với Chúa Kitô. Không sống với Người, chúng ta không thể thấu hiểu bản chất và những đòi hỏi của tình yêu. Tất cả bản lãnh và sức mạnh phục vụ đều bắt nguồn từ cuộc gặp gỡ Chúa Kitô trong lời cầu nguyện. Cầu nguyện là bước vào cuộc sống của Chúa, để có thể nhìn thấy và phục vụ anh chị em đang đau khổ trong mọi cơ chế bất công.

CÁCH MẠNG NHUNG

Bất công là nguyên nhân sinh ra mọi tệ trạng xã hội. Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới từng nhận định : "Mặc dù không phân tích sâu xa hiện trạng thế giới, nhưng chúng tôi có thể nhận thấy những bất công nghiêm trọng đang thiết lập một hệ thống khống chế, đàn áp và lộng hành khắp nơi để bóp nghẹt tự do và làm cho phần lớn nhân loại không thể tăng trưởng và không có một thế giới công bình và huynh đệ hơn." [7]

Cũng như Mathêu, Luca đặt ở phần mở đầu Kinh Lạy Cha lời cầu xin cho "Triều Đại Cha mau đến." (Lc 11:2) Đây là cốt lõi mọi vấn đề trong Kinh Lạy Cha và là sứ điệp căn bản của Chúa Giêsu và các môn đệ trong Tin Mừng Nhất Lãm. Đó cũng là chủ đề nòng cốt trong lời giảng các Tông đồ (ví dụ Cv 8:12; 19:8). Nước Thiên Chúa không phải chỉ là chủ đề duy nhất được đề cập đến trong Tin Mừng Mathêu, nhưng còn là chủ đề quan trọng trong Tin Mừng Luca nữa.

Dưới ngòi bút Luca, con cháu Abraham (ví dụ Lc 13:10-17; 19:1-10) và những người thừa hưởng lời hứa của Thiên Chúa là chính những "người nghèo của Thiên Chúa," nạn nhân của những cơ chế bất công trong đạo cũng như ngoài đời. Mối phúc thứ nhất dành cho người nghèo Nước Thiên Chúa. Họ nghèo thực sự, chứ không phải chỉ có tinh thần nghèo khó. Nhờ gặp gỡ Chúa Kitô trong lời cầu nguyện các Kitô hữu tiên khởi đã chia sẻ tài sản với những người túng bấn (Lc 6:17-49). Như thế, rõ ràng Nước Thiên Chúa đã có ảnh hưởng sâu xa tới nước trần gian. Giáo hội đã phục vụ Nước Thiên Chúa một cách hữu hiệu trong việc biến cải và thay đổi xã hội.

Khi cầu nguyện cho "Triều Đại Cha mau đến," môn đệ Chúa Kitô đang thực hiện một cuộc cách mạng biến đổi thế giới.[8] Quả thế, "thế giới hôm nay nổi bật với tội bất công nặng nề. Chúng ta vừa nhận thức trách nhiệm, vừa thấy mình không thể lấy sức mạnh chế ngự tội bất công đó. Tình hình đó thúc đẩy chúng ta phải lắng nghe lời Thiên Chúa với tâm hồn khiêm tốn và mở rộng."[9] Bởi đấy, Kinh Lạy Cha đòi chúng ta phải lật đổ bất cứ thứ bất công nào trên thế giới.

Hơn nữa, Kinh Lạy Cha cũng thúc đẩy chúng ta thành lập những cộng đoàn phản ánh trung thực những giá trị Tin Mừng. Vì đã thinh lặng trước sự bất công trong đạo và bị những hứa hẹn sai lạc của đế quốc trần gian quyến rũ, chúng ta không thấy nhu cầu liên kết để hỗ trợ nhau và bàn thảo kế hoạch thay đổi những chế độ tội lỗi. Liên đới với những người đang sống trong hoàn cảnh không thể thực hiện ước nguyện giữa những tương quan cá nhân, phe nhóm và cơ chế. Đó là thách đố đối với những ai đang hưởng lợi từ sự bất công. Đó cũng là đề nghị hay nhất của Kinh Lạy Cha. Bởi thế, càng cần phải thành lập gấp những cộng đoàn đối kháng, đặt nền trên lời cầu nguyện, lời thề sống chết theo công lý và đầy cảm thông. Cộng đoàn như thế sẽ thay thế trật tự xã hội hiện tại.[10]

Khi quy tụ thành cộng đoàn, chúng ta có Chúa Giêsu ở giữa (x. Mt 18:20) để soi sáng cho chúng ta thấy những lý thuyết cực đoan ảnh hưởng tới đời sống trong bốn cấp độ : cá nhân, liên vị, hạ tầng kiến trúc và môi trường. Chúng ta tự hỏi các đường lối hiệp thông khác nhau trên thế giới có phản ánh sự hiệp thông mà Thiên Chúa đòi phải có trong các tương quan giữa con người và các nguồn tài nguyên trên trái đất không. Vấn đề sẽ nổi cộm và làm nhức nhối lương tâm. Cuối cùng chúng ta sẽ đi đến quyết định tìm đường lối nào tốt nhất để sám hối trong mọi lãnh vực đời sống.[11] Sám hối sẽ thay đổi tận nền tảng mọi cơ chế bất công trong xã hội và Giáo hội.

Như thế, Kinh Lạy Cha cổ động công lý trong một thế giới đầy bất công. Bất công đã bóp nghẹt tự do giữa con người và tạo nên chướng ngại cho việc xây dựng một thế giới liên đới hay đầy tình huynh đệ hơn. Bất công làm cho phần lớn nhân loại không được chia sẻ những tài nguyên trái đất. Nếu Kinh Lạy Cha thực sự phát xuất tận đáy lòng, người tín hữu không thể không thấy mọi người đều bình đẳng trước Thiên Nhan. Trong mỗi lời cầu xin, Kinh Lạy Cha đều đảo lộn sâu xa những động lực trần gian. Bởi thế, chỉ khi nào có cái nhìn của Chúa, chứ không phải của thế gian, Kitô hữu mới có thể thực sự đọc Kinh Lạy Cha một cách có ý nghĩa và hiệu lực. Nếu không, dù có đọc cả triệu lần Kinh Lạy Cha, mọi sự vẫn chẳng có gì biến đổi. Cái khó biến đổi nhất là cái tôi, cá nhân hay tập thể cũng vậy. Có bước đầu tiên đó mới có những bước kế tiếp.

ĐƯỜNG CHÚNG TA ĐI

Có một số người vẫn sống trong mơ. Theo họ, cầu nguyện là gặp gỡ Chúa. Đó là lối sống đạo. Đời là đấu tranh, giành dựt, mưu mô. Có lằn ranh rõ rệt. Không thể đem Chúa ra khỏi nhà thờ. Ra khỏi nhà thờ, Kitô hữu cần khoác bộ áo và khuôn mặt khác. Nếu không, họ sẽ thất bại thê thảm. Giữa cầu nguyện và cuộc sống cần phải có một bước nhảy vọt.

Có đúng như thế không ? Nếu đúng, vô tình họ tự đứng vào phe những người không chung đất đứng với Chúa Giêsu. Những người đó vẫn có mặt trong đạo và ngoài đời. Khi tách biệt đạo đời quá kỹ, con người không còn sống thật với chính mình. Bởi đó, họ dễ trở thành mồi ngon cho đủ thứ chủ nghĩa, từ tình dục đến quyền lực, từ tiền tài đến danh vọng v.v.

Chỉ có đức tin mới giúp chúng ta thấy được mạch nối giữa cầu nguyện và cuộc sống. Thực vậy, "cầu nguyện và sống đạo là hai việc không thể tách rời. Cả hai cùng xuất phát từ tình yêu và sự quên mình vì yêu. Cả hai cùng nhắm đến chỗ hòa hợp với ý định yêu thương của Chúa Cha trong tâm tình mến yêu của người con thảo. Cả hai cùng giúp tín hữu hiệp thông với Thánh Linh để được biến đổi ngày càng nên giống Đức Giêsu Kitô. Cả hai cùng thể hiện tình thương yêu mọi người, bắt nguồn từ tình yêu Đức Kitô đã yêu thương ta."[12]

Thiên Chúa muốn cuộc sống Kitô hữu phải thống nhất. Hơn nữa, Thiên Chúa còn muốn Kitô hữu phải nhập thể và nhập thế như Đức Kitô. Có nhiều người đứng ngoài nhìn vào để lên án những người đang nhập cuộc. Nhập cuộc không chỉ thấy nơi những người trong cuộc. Có khi đang ở trong cuộc mà không nhập cuộc. Chẳng hạn, nhiều người đang sống ở Việt nam cứ tưởng mình đang nhập cuộc và lên án hay thách thức những người đang ở Hải ngoại. Họ tự cho mình là người can đảm vì đã chấp nhận ở lại để sống với chế độ. Họ lên tiếng chê bai những người chỉ biết viết những bài chia sẻ mà không sống Lời Chúa. Họ thách thức những người hải ngoại về Việt nam để tranh đấu cho nhân quyền. Khác với cái nhìn trục lợi về "khúc ruột ngàn dặm," có lẽ họ vẫn coi người Việt Hải ngoại là những kẻ nhát gan, đào tẩu, phản bội tổ quốc và GHCGVN.

Đó có phải là một âm mưu thâm độc nhằm chia rẽ những người ở trong và ở ngoài nước ? Dù sao, cứ giả thiết đó là những vấn nạn thực sự của những người anh em thiện chí, chúng ta cũng cần nhìn nhận một sự thật. Nếu hàng ngày đều đọc Kinh Lạy Cha, chúng ta đều xác tín mình là anh chị em với nhau, vì cùng chung một Cha trên trời. Những gì đụng tới đồng bào trong nước đều đụng tới đồng bào Hải ngoại. Những dấn thân của tập thể đồng bào trong nước đều là nguồn hứng khởi cho cộng đồng Hải ngoại. Tất cả chỉ là một. Vậy tại sao lại phân biệt và chia rẽ chúng ta ?

Nhiều người tưởng rằng từ quan điểm đến hành động, chúng ta không còn là một nữa. Theo họ, chỉ có những người trong nước mới có những cái nhìn xác đáng và xứng đáng là người con của tổ quốc và GHCGVN. Họ vỗ ngực tự hào chỉ mình mới có bản lãnh sống giữa những thử thách cam go. Trong khi kêu gọi người khác phải "biết tôn trọng nhau và độ lượng hơn,"[13] chính họ lại lên giọng kết án cả một tập thể người Việt Hải ngoại ! Không biết họ có đọc Kinh Lạy Cha hàng ngày không nhỉ ?

Họ còn nói những người bên ngoài đồng hóa quê hương với chế độ. Làm như Việt nam vẫn còn là một xã hội đóng như chế độ Bắc Việt từ 1954-1975 vậy ! Nếu quả thực có cái nhìn thiên lệch đó, hàng năm đã không có hàng mấy trăm ngàn người về Việt nam như thế. Không phải vì yêu chế độ mà chúng tôi về Việt nam đâu !

Riêng về GHCGVN, họ tự cho mình quyền đứng ra bênh vực các GMVN. Đối với họ, những người ngoài nước không biết gì hết. Tất cả mọi việc làm của các GMVN đều đúng cả. Đừng ai đụng chạm tới các đấng bề trên cao cấp của chúng tôi ! Tội chết ! Tất cả hãy đấm ngực ăn năn đi ! Có lẽ họ cần đấm ngực trước, vì đã cố tình "nịnh bợ" quá kỹ khiến các đấng không dám dấn thân đáp ứng nhu cầu bức thiết của đồng bào nữa !

Dựa trên những quyền lợi GHCGVN đang được hưởng từ chế độ, họ hăng say biện hộ cho các GMVN . GHCGVN ngày càng bề thế với đầy đủ vây cánh như vậy, ai chẳng ham ?! Nhưng hiện diện như thế để làm gì ? Sứ mệnh hay phương tiện, thứ nào cần thiết và quan yếu hơn ? Đầy đủ quá có dễ chu toàn sứ mệnh không ? Chúa Giêsu có dạy các môn đệ sắm đầy đủ phương tiện trước khi lên đường truyền giáo không ?

Tại sao cùng sống trong một hoàn cảnh như GHCGVN, nhưng GHPGVNTN lại có hành động khác ? Vấn đề không phải là hợp tác hay không hợp tác. Không thể quay ngược bánh xe lịch sử. Vấn đề là hợp tác tới mức nào và trong những lãnh vực nào, miễn đừng phản bội sứ mệnh Chúa đã trao cho GHCGVN. Giáo hội chỉ là phương tiện phục vụ Nước Trời, chứ không ngược lại. Giáo hội phải hy sinh tất cả để "Triều Đại Cha mau đến." Nếu không, Giáo hội sẽ phản bội Thày mình vì đã không chu toàn sứ mệnh trọng đại đối với dân tộc.

Lạy Cha, xin cho chúng con biết hy sinh cho "Triều Đại Cha mau đến" trên quê hương chúng con. Xin cho chúng con luôn hiệp nhất để chu toàn sứ mệnh lịch sử trong GHVN hôm nay. Amen.


Phụ chú

[1] http://www.famouspeople.co.uk/m/motherteresa.html

[2] ibid.

[3] ĐGH Gioan Phaolô II (2003). Diễn Giảng Cho Khách Hành Hương
Đến Roma Nhân Dịp Phong Chân Phước Cho Mẹ Têrêsa.
http://www.famouspeople.co.uk/m/motherteresa.html

[4](WIL, 31) http://tiengnoigiaodan.net/dacbiet/db_nnqlu.html.

[5] Giáo Lý Công Giáo, số 2744.

[6] Trong trung tâm Thế giới, Thư viện New World.

[7] Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới 1971, "Công Bình Trên Thế Giới."

[8] x. Crosby, M. H., The Prayer That Jesus Taught Us, 2002:23.

[9] Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới 1971, "Công Bình Trên Thế Giới."

[10] x. Crosby, M. H., The Prayer That Jesus Taught Us, 2002:23.

[11] ibid.

[12] Giáo Lý Công Giáo, số 2745.

[13] http://www.vietcatholic.net/News/Html/45891.htm