"Thi bá Việt Nam" Vũ Hoàng Chương có tên trong danh sách tổng hợp đề cử Nobel năm 1972 của Viện Hàn lâm Thụy Điển.
Danh sách được Ủy ban Nobel công bố trong tháng 2, sau 50 năm giữ kín theo quy định của giải này.
Theo đó, Vũ Hoàng Chương là một trong 100 tên tuổi được đề cử.
Viện Hàn lâm Thụy Điển chú thích nhà thơ là Chủ tịch Hội Văn bút Việt Nam, được đề cử lần đầu, người giới thiệu là Thang Lang.
Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên cho rằng Thang Lans thực chất là học giả Thanh Lãng, bị nhầm lẫn do lỗi đánh máy.
Thanh Lãng sinh năm 1924, là linh mục, nhà giáo dục, đỗ tiến sĩ tại Đại học Fribourg, Thụy Sĩ. Ông từng giảng dạy tại Đại học Văn khoa Huế, Đại học Văn khoa Sài Gòn, làm việc tại Viện Khoa học xã hội Sài Gòn.
Ông Phạm Xuân Nguyên nói việc nhà thơ Vũ Hoàng Chương từng được đề cử Nobel là niềm vui, sự vinh dự. Theo ông, văn học nước nhà có cơ hội tiếp cận giải thưởng danh giá, nhưng cần chú ý chọn tác phẩm chất lượng, đảm bảo khâu dịch thuật để các chuyên gia quốc tế dễ dàng hiểu.
Nhà thơ Vũ Hoàng Chương sinh năm 1915 ở Hưng Yên, mất năm 1976 tại Saigon .
Ông từng học trường Albert Sarraut nổi tiếng ở Hà Nội, đỗ tú tài năm 1937. Ông học ngành luật nhưng sau một năm thì bỏ đi làm ngành đường sắt.
Năm 1941, ông bỏ việc đi học cử nhân toán ở Hà Nội nhưng rồi lại rẽ ngang sang dạy học.
Từ những năm 1940, ông sáng tác nhiều thơ, kịch, từng có vở kịch thơ "Vân muội", công diễn tại Nhà hát Lớn Hà Nội.
Từ năm 1946 đến năm 1954, ông gắn với nghề dạy toán, văn ở Nam Định, Hà Nội.
Năm 1954, ông di cư vào Sài Gòn sinh sống, tiếp tục sáng tác và làm nghề giáo. Nhà thơ là tên tuổi nổi bật trong phong trào Thơ Mới (1932-1945).
Nhà phê bình Đỗ Lai Thúy nhận xét Vũ Hoàng Chương là người làm thơ tài hoa, chuyên nghiệp, từng được gọi là "Thi bá Việt Nam". Ông có 15 tập thơ, các vở kịch thơ là "Trương Chi, Vân muội, Hồng diệp"...
Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là tập "Thơ say", gồm 32 bài, ra mắt năm 1940.
Trong "Thi nhân Việt Nam", Hoài Thanh, Hoài Chân viết: "Bấy nhiêu say sưa đều nuôi bằng một say sưa to hơn mọi say sưa khác: Say thơ.... cái say sưa của Vũ Hoàng Chương là một thứ say sưa có chừng mực, say sưa mà không hẳn là trụy lạc, mặc dầu từ say sưa đến trụy lạc đường chẳng dài chi. Nhưng trụy lạc hay say sưa đều mang theo một niềm ngao ngán. Niềm ngao ngán ấy ta vốn đã gặp trong thơ xưa. Duy ở đây có cái vị chua chát, hằn học, và bi đát riêng...".
Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên từng đọc tùy bút "Ta đã làm chi đời ta" của Vũ Hoàng Chương, nói về cuộc sống văn nghệ ở miền Bắc từ đầu thập niên 1940 cho đến giữa thập niên 1950.
Nhà phê bình nhận xét: "Đọc ông ta thấy tình văn nhân thật tri âm tri kỷ mà cũng nhiều cung bậc, sắc thái hỉ nộ ái ố. Cuốn sách như cuốn phim giữ lại cho văn học sử nước nhà một thời đoạn văn nghệ không còn có lại, mãi mãi gắn liền với một thời ly tao của đất nước".
Theo quy trình, hàng năm Ủy ban Nobel Văn học gửi khoảng 600-700 thư mời đánh giá cho thành viên Viện Hàn lâm Thụy Điển hoặc các học viện, viện hàn lâm, tổ chức có cơ cấu và mục đích tương tự; những giáo sư văn học, ngôn ngữ tên tuổi, các nhà văn từng đoạt giải Nobel, Chủ tịch hội nhà văn các nước - đề nghị giới thiệu ứng viên.
Sau đó, họ tập hợp, chọn danh sách gồm khoảng 100 ứng viên để trình lên Viện hàn lâm phê chuẩn.
Danh sách này chỉ được công bố sau 50 năm.
Trải qua các vòng sơ khảo, chung khảo, Ủy ban Nobel sẽ chọn năm người cuối cùng để thảo luận, nghiên cứu và tìm ứng viên chiến thắng.
.
Trước Vũ Hoàng Chương, nhà báo, nhà văn Hồ Hữu Tường (1910-1980) có tên trong danh sách đề cử giải Nobel Văn học năm 1969. Người giới thiệu là nhà thơ Đông Hồ (1906-1969).
Hà Thu
Saturday, December 13, 2025
Tuesday, December 09, 2025
Fwd: Phương Đoàn - Vô một hiệu sách của người Việt ở Nam...
>
>
> Phương Đoàn
>
> Vô một hiệu sách của người Việt ở Nam California, sau một hồi lui cui tìm kiếm rồi cầm một cuốn sách ra quầy trả tiền.
> Người cashier cầm cuốn sách lên ngắm nghía rồi hỏi: " Ủa, sao lại mua cuốn sách này?"
> Mình cười, nói cho qua chuyện: " Bởi tôi sưu tầm đồ cổ."
> Cuốn sách mà mình mua được tái bản lần thứ 2 tại Mỹ vào năm 1989. Cuốn sách này được xuất bản lần đầu tại miền Nam Việt Nam vào đâu khoảng đầu năm 1975, không lâu trước khi Sài Gòn bị thất thủ.
> Đó là cuốn " Xương trắng Trường Sơn ", tập 2 của tùy bút " Đường đi không đến " của tác giả Xuân Vũ.
> Nếu bây giờ vẫn còn một số người phê phán " Nỗi buồn chiến tranh" của Bảo Nình vì sự trần trui, tàn khốc của của chiến thì hãy nên tìm đọc thêm " Đường đi không đến " của Xuân Vũ để hiểu rằng những gì Bảo Ninh miêu tả " chẳng là cái đinh gỉ gì " nếu so với sự thật đớn đau, bẽ bàng của đoàn quân " đi, ta đi giải phóng miền Nam..."
> Điều đáng nói đây không phải là tác phẩm hư cấu, mà là ghi chép dạng tùy bút của chính một người " bộ đội cụ Hồ ", tức là đồng đội của Bảo Ninh.
> Con đường Trường Sơn trong những bản nhạc tuyên truyền hào hùng, lãng mạn làm sao:
> " Trường Sơn ơi, trên đường ta đi không một dấu chân người
> Có con nai vàng ghiêng đôi tai ngơ ngác
> Dừng ở lưng đèo nghe suối hát
> Ngắt đoá hoa rừng gài lên mũ, ta đi..."
> Còn Trường Sơn trên thực tế qua ngòi bút của Xuân Vũ thì toàn xác bộ đội bị bom vùi dập, phơi nắng mưa, một số chỉ còn xương cẳng chân, xương sườn, hộp sọ trắng phau lẫn trong lá mục, không có bia mộ, không có vải liệm, thậm chí không ai dám dừng lại chôn vì máy bay Mỹ rình rập...
> Đặc biệt Xuân Vũ có sinh hoạt chung vơi một số người rất nổi tiếng trong giới văn nghệ miền Bắc và mình thực sự xót thương cho hoàn cảnh éo le, số phận nghiệt ngã của một thần tượng của mình, nhạc sĩ Hoàng Việt với những ca khúc bất hủ như " Tiếng còi trong sương đêm", " Lên ngàn", " Nhạc rừng ", " Tình ca"...
> Có thể bối cảnh trong tùy bút " Xương trắng Trường Sơn " là giai đoạn đầu của cuộc chiến, khi đường mòn Hồ Chí Minh chưa được xây dựng, vậy nên hình ảnh của đoàn quân " giải phóng miền Nam " lội rừng Trường Sơn rất bi thảm, nó giống như một đám tàn quân, thậm chí còn cướp bóc cả những kho quân nhu của " phe mình " vì quá đói khát, túng quẫn...
> Trong đội quân hừng hực ý chí lúc đầu nhưng qua sự khắc nghiệt của Trường Sơn thì nhiều người đã hối hận, thậm chí đào ngũ quay lại Bắc...
> Vậy đấy, văn học là nhân học, văn học phản ánh cuộc sống, mà cuộc sống không phải lúc nào cũng màu hồng.
> Nếu hồi còn chiến tranh, vì lý do chính trị nên văn học chỉ được phép ca ngợi sự hào hùng, chính nghĩa của cuộc chiến, đó là điều dễ hiểu và chấp nhận được. Nhưng đã đến lúc những thế hệ sau được phép nhìn cuộc chiến dưới các góc cạnh khác nhau, cả màu hồng lẫn mặt tối của nó....
> Nhân tiện đây viết thêm về chuyện đào ngũ trong Quân đội Nhân dân Việt Nam mà mình trực tiếp chứng kiến, có điều không phải là trong thời chiến tranh với Mỹ.
> Từ 1975 đến 1978, các tỉnh thuộc biên giới Tây Nam liên tục bị quân Polpot tấn công, xâm lấn.
> Tỉnh Long An nơi mình ở lúc đầu thuộc quân khu 7 nhưng sau đó bị chuyển về quân khu 9. Bởi vậy nên mới có biệt danh cảm thán " Quân khu Chán, tỉnh Long Đong " vì quân khu 9 không được trang bị và hỗ trợ đầy đủ về quân sự.
> Cầm cự giữ biên giới ở Long An chủ yếu là do quân địa phương và dân quân du kích đảm nhận.
> Tỉnh Đội Long An chỉ có một trung đoàn mang tên " Vàm Cỏ " nhưng bị đánh tan tác vì quân số đào ngũ dữ quá, chỉ còn trụ lại một tiểu đoàn làm " xương sống ", đó là tiểu đoàn 1, nổi danh từ thời đánh Mỹ.
> Thấy Long An túng quẫn quá, 2 tỉnh láng giềng là Bến Tre và Tiền Giang không có biên giới với Campuchia nên đã gửi mỗi tỉnh 1 tiểu đoàn quân địa phương lên chi viện cho Long An.
> Ngày 2 tiểu đoàn chi viện tới thì cả Thị xã Tân An trống đánh, nhạc vang, học sinh túa ra đường cầm cờ vẫy, các thiếu nữ áo dài chạy theo xe quàng vòng hoa lên cổ những người lính trẻ măng đang cười toe toét...
> Vậy mà chỉ trong khoảng 1 tháng thì cả 2 tiểu đoàn cũng bị tan tác, không kèn, không trống rút về vị trí cũ. Lý do vì Miên đánh thì ít mà bởi vì lính ta đào ngũ thì nhiều.
> Một thằng bạn thân đang học lớp 12 thì phải đi lính. Mình viết một bài ca ngợi nó, được in báo, lãnh cả tiền nhuận bút nữa, đài phát thanh réo tên nó ra rã trên chương trình " Người tốt, việc tốt"... Vậy mà chưa đầy một năm sau, nó hớt hải chạy đến nhà mình " Cho tao trú tạm vài bữa, chứ tao đào ngũ rồi, quay về nhà thế nào cũng bị bắt lại. Mà Đù Má, mày đem tao lên báo làm gì vậy làm tao khốn khổ như vầy?". Thằng đó sau này vượt biên, giờ đang định cư bên Úc...
> Mà thôi, viết liên miên quá rồi, đang " Nỗi buồn chiến tranh " thì nhảy qua " Xương trắng Trường Sơn" rồi đá thêm về " Long An trung dũng kiên cường-Toàn dân đánh giặc, mượn xuồng không cho"...
> Đúng là " Viết dai, viết dài, đâm ra viết dại..."
> Mai sẽ trở về lại đề tài cố hữu " Cướp, giết, hiếp" cho nó lành...
>
> Phương Đoàn
>
> Vô một hiệu sách của người Việt ở Nam California, sau một hồi lui cui tìm kiếm rồi cầm một cuốn sách ra quầy trả tiền.
> Người cashier cầm cuốn sách lên ngắm nghía rồi hỏi: " Ủa, sao lại mua cuốn sách này?"
> Mình cười, nói cho qua chuyện: " Bởi tôi sưu tầm đồ cổ."
> Cuốn sách mà mình mua được tái bản lần thứ 2 tại Mỹ vào năm 1989. Cuốn sách này được xuất bản lần đầu tại miền Nam Việt Nam vào đâu khoảng đầu năm 1975, không lâu trước khi Sài Gòn bị thất thủ.
> Đó là cuốn " Xương trắng Trường Sơn ", tập 2 của tùy bút " Đường đi không đến " của tác giả Xuân Vũ.
> Nếu bây giờ vẫn còn một số người phê phán " Nỗi buồn chiến tranh" của Bảo Nình vì sự trần trui, tàn khốc của của chiến thì hãy nên tìm đọc thêm " Đường đi không đến " của Xuân Vũ để hiểu rằng những gì Bảo Ninh miêu tả " chẳng là cái đinh gỉ gì " nếu so với sự thật đớn đau, bẽ bàng của đoàn quân " đi, ta đi giải phóng miền Nam..."
> Điều đáng nói đây không phải là tác phẩm hư cấu, mà là ghi chép dạng tùy bút của chính một người " bộ đội cụ Hồ ", tức là đồng đội của Bảo Ninh.
> Con đường Trường Sơn trong những bản nhạc tuyên truyền hào hùng, lãng mạn làm sao:
> " Trường Sơn ơi, trên đường ta đi không một dấu chân người
> Có con nai vàng ghiêng đôi tai ngơ ngác
> Dừng ở lưng đèo nghe suối hát
> Ngắt đoá hoa rừng gài lên mũ, ta đi..."
> Còn Trường Sơn trên thực tế qua ngòi bút của Xuân Vũ thì toàn xác bộ đội bị bom vùi dập, phơi nắng mưa, một số chỉ còn xương cẳng chân, xương sườn, hộp sọ trắng phau lẫn trong lá mục, không có bia mộ, không có vải liệm, thậm chí không ai dám dừng lại chôn vì máy bay Mỹ rình rập...
> Đặc biệt Xuân Vũ có sinh hoạt chung vơi một số người rất nổi tiếng trong giới văn nghệ miền Bắc và mình thực sự xót thương cho hoàn cảnh éo le, số phận nghiệt ngã của một thần tượng của mình, nhạc sĩ Hoàng Việt với những ca khúc bất hủ như " Tiếng còi trong sương đêm", " Lên ngàn", " Nhạc rừng ", " Tình ca"...
> Có thể bối cảnh trong tùy bút " Xương trắng Trường Sơn " là giai đoạn đầu của cuộc chiến, khi đường mòn Hồ Chí Minh chưa được xây dựng, vậy nên hình ảnh của đoàn quân " giải phóng miền Nam " lội rừng Trường Sơn rất bi thảm, nó giống như một đám tàn quân, thậm chí còn cướp bóc cả những kho quân nhu của " phe mình " vì quá đói khát, túng quẫn...
> Trong đội quân hừng hực ý chí lúc đầu nhưng qua sự khắc nghiệt của Trường Sơn thì nhiều người đã hối hận, thậm chí đào ngũ quay lại Bắc...
> Vậy đấy, văn học là nhân học, văn học phản ánh cuộc sống, mà cuộc sống không phải lúc nào cũng màu hồng.
> Nếu hồi còn chiến tranh, vì lý do chính trị nên văn học chỉ được phép ca ngợi sự hào hùng, chính nghĩa của cuộc chiến, đó là điều dễ hiểu và chấp nhận được. Nhưng đã đến lúc những thế hệ sau được phép nhìn cuộc chiến dưới các góc cạnh khác nhau, cả màu hồng lẫn mặt tối của nó....
> Nhân tiện đây viết thêm về chuyện đào ngũ trong Quân đội Nhân dân Việt Nam mà mình trực tiếp chứng kiến, có điều không phải là trong thời chiến tranh với Mỹ.
> Từ 1975 đến 1978, các tỉnh thuộc biên giới Tây Nam liên tục bị quân Polpot tấn công, xâm lấn.
> Tỉnh Long An nơi mình ở lúc đầu thuộc quân khu 7 nhưng sau đó bị chuyển về quân khu 9. Bởi vậy nên mới có biệt danh cảm thán " Quân khu Chán, tỉnh Long Đong " vì quân khu 9 không được trang bị và hỗ trợ đầy đủ về quân sự.
> Cầm cự giữ biên giới ở Long An chủ yếu là do quân địa phương và dân quân du kích đảm nhận.
> Tỉnh Đội Long An chỉ có một trung đoàn mang tên " Vàm Cỏ " nhưng bị đánh tan tác vì quân số đào ngũ dữ quá, chỉ còn trụ lại một tiểu đoàn làm " xương sống ", đó là tiểu đoàn 1, nổi danh từ thời đánh Mỹ.
> Thấy Long An túng quẫn quá, 2 tỉnh láng giềng là Bến Tre và Tiền Giang không có biên giới với Campuchia nên đã gửi mỗi tỉnh 1 tiểu đoàn quân địa phương lên chi viện cho Long An.
> Ngày 2 tiểu đoàn chi viện tới thì cả Thị xã Tân An trống đánh, nhạc vang, học sinh túa ra đường cầm cờ vẫy, các thiếu nữ áo dài chạy theo xe quàng vòng hoa lên cổ những người lính trẻ măng đang cười toe toét...
> Vậy mà chỉ trong khoảng 1 tháng thì cả 2 tiểu đoàn cũng bị tan tác, không kèn, không trống rút về vị trí cũ. Lý do vì Miên đánh thì ít mà bởi vì lính ta đào ngũ thì nhiều.
> Một thằng bạn thân đang học lớp 12 thì phải đi lính. Mình viết một bài ca ngợi nó, được in báo, lãnh cả tiền nhuận bút nữa, đài phát thanh réo tên nó ra rã trên chương trình " Người tốt, việc tốt"... Vậy mà chưa đầy một năm sau, nó hớt hải chạy đến nhà mình " Cho tao trú tạm vài bữa, chứ tao đào ngũ rồi, quay về nhà thế nào cũng bị bắt lại. Mà Đù Má, mày đem tao lên báo làm gì vậy làm tao khốn khổ như vầy?". Thằng đó sau này vượt biên, giờ đang định cư bên Úc...
> Mà thôi, viết liên miên quá rồi, đang " Nỗi buồn chiến tranh " thì nhảy qua " Xương trắng Trường Sơn" rồi đá thêm về " Long An trung dũng kiên cường-Toàn dân đánh giặc, mượn xuồng không cho"...
> Đúng là " Viết dai, viết dài, đâm ra viết dại..."
> Mai sẽ trở về lại đề tài cố hữu " Cướp, giết, hiếp" cho nó lành...
Nguyễn Tuấn - "Nỗi Buồn Chiến Tranh" và "Dấu Binh Lửa"...
Nguyễn Tuấn
December 5 at 12:44 AM
"Nỗi Buồn Chiến Tranh" và "Dấu Binh Lửa"
Đó là hai tác phẩm của hai nhà văn thuộc hai bên chiến tuyến. Cùng viết về xác người giữa chiến trường, một bên ném cái xác như ném bao tải, một bên khóc thầm trước chiếc áo tím còn bay trong gió.
Tác phẩm "Nổi Buồn Chiến Tranh" (NBCT) của Nhà văn Bảo Ninh được vinh danh, và vậy là có lời ra tiếng vào. Tôi nghĩ vinh danh ok mà.
Ở đây, tôi liên tưởng tới một nhà văn quân đội khác, thuộc bên kia chiến tuyến: Phan Nhật Nam. So sánh cách họ viết cũng ngộ ra vài điều.
Hồi đó (tức ~30 năm trước), khi sách mới xuất bản, NBCT được giới thiệu như là một 'sản phẩm' của trào lưu đổi mới văn học Việt Nam. Tác giả dám nói đến những mất mát và đau thương trong thời chiến, vốn là một đề tài cấm kị trước đó. Giới phê bình văn học, trong và ngoài nước, nhận xét rằng NBCT thể hiện một suy nghĩ nghệ thuật mới mẻ. Và, đúng như vậy.
■ Văn chương 'graphic'
Thấy giới thiệu nồng nhiệt như vậy, tôi cũng cố gắng tìm mua để đọc. Tôi đọc NBCT một lần. Nhưng không dám đọc lại lần nữa vì hình ảnh trong đó quá … 'ấn tượng'.
Dĩ nhiên, nhà văn là người có tài viết văn hay, và quả thật trong sách có nhiều câu văn đẹp.
Nhưng trong tiểu thuyết cũng có những đoạn văn rất ... khó đọc. Thử đọc một đoạn trong NBCT mô tả cái nhìn của nhân vật chánh trong tiểu thuyết tên Kiên:
"Kiên hờ hững ngó ra sau. À. Một cái xác. Một cái xác đàn bà trắng hếu, ngưc ưỡn dựng lên, chân dang ra như hai lưỡi léo, mái tóc đổ xõa che lấp nửa mặt, nằm gần như chắn ngang trước cửa phòng hải quan. Còn trẻ, mắt nhắm hờ. Dưới lưng không thấy vũng máu…"
và đoạn mô tả đối phương:
"[...] Một gã hộ pháp. Ðội mũ sắt, có lẽ là lính cao xạ từ trong phòng hải quan đi ra khệ nệ khuân trên tay hai két bia 33. Bước qua ngưỡng cửa mắt nghếch lên, gã vấp phải cái xác bị xô chúi tới, ngã sấp. Cả đống bia giáng xuống loảng choảng chai vỡ tan, bia óng vàng tuôn lênh láng. Ðám lính tăng cười ro. Kiên nhếch mép.
Sượng sùng gã sục 'đồ cổ' nhỏm dậy tức tối vò hai nắm đấm gườm gườm nhìn những kẻ đang cười nhạo mình. Rồi nhổ toẹt, hầm hầm cái mặt, hắn sấn lại đá tới tấp vào cái vật vừa ngáng chân hắn Vừa đá vừa rống lên:
'Ð mẹ mầy, con đĩ! Mày ưỡn của nợ ra đây cho chúng nó ngắm à! Mày gài mìn bố mày! Tổ sư mày, cười cái cắc củ! Ðứa nào thích ngắm nghía mày thì kệ bố mày! Bố mày cứ dọn phắt mày đi!'
Chửi đoạn, thằng cha 'Chí Phèo' túm lấy một chân người chết xềnh xệch kéo lết đi.
Thằng chó má dã man léo sền sệt cái xác khốn khổ qua mặt sân bê tông loáng sáng nước mưa và nắng chói, rồi hự, hắn choãi chân vặn lưng lấy đà quăng mạnh, liệng bổng người ta lên.
Xoay lộn mấy vòng, cái xác trắng rợn bay chênh chếch rồi thịch xuống cạnh mấy cái thây lính dù chưa ai dọn. Lưng vừa chạm đất, người đàn bà chết ngồi bật dậy, hai tay đưa vung lên, cái miệng tuồng như há ra chực kêu rồi ngã vật nghiêng, đập đầu xuống. Tên súc sinh khệnh khạng bỏ đi tay khuỳnh khuỳnh ra dáng người hùng…"
Thật ra, văn chương bạo lực và 'graphic' như vầy khá phổ biến ở các tác giả khác nữa. Độc giả sẽ phải gặp những câu đầy ám ảnh như "mụ ngụy cái ngực vỡ toác", "moi tim gan nướng ăn tại chỗ", "xẻo vú bộ đội nữ", v.v. Thử đọc một đoạn sau đây của một nhà văn nổi tiếng:
"… quân ta ào lên, bắt giết, đâm, dẫm đạp. Một mụ ngụy cái, ngực để trần, miệng há ra ú ớ. Niềm căm thù kẻ hạnh phúc hơn mình bốc lên ngùn ngụt trong ngực mình. Mình găm vào ngực mụ cả loạt khiến ngực mụ vỡ toác mà mặt mụ vẫn chưa hết hy vọng. Giết người lúc ấy sao thấy sướng thế! Một thằng ngụy bị mình xọc lê vào bụng, nghe 'thụt' một cái. Mình nghiến răng vặn lê rồi trở báng súng phang vào giữa mặt hắn. Hắn lộn một vòng, gồng mình giẫy chết như con tôm sống bị ném vào chảo mỡ…"
Đó là cách mà một số nhà văn mô tả những kẻ thuộc bên kia chiến tuyến.
Đọc lên mà thấy ghê rợn. Người phương Tây gọi là cách viết 'graphic'. Họ có thể viết ra những câu chữ đó làm tôi kinh ngạc.
■ Làm tôi liên tưởng tới một nhà văn quân đội bên kia chiến tuyến: Phan Nhật Nam.
Phan Nhật Nam là một nhà văn nổi tiếng thời trước 1975. Ông người gốc Quảng Trị. Thân phụ ông là người bên kia chiến tuyến, và từng là đảng viên Đảng CSVN. Sau 1975, ông bị bắt đi tù cải tạo suốt 14 năm trời, trước khi sang Mĩ định cư.
Nói đến Phan Nhật Nam, những người thuộc thế hệ tôi đều nghĩ ngay đến cuốn "Mùa Hè Đỏ Lửa". Đó là một loại tuỳ bút được viết ra trong trận chiến ở Quảng Trị vào năm 1973, có liên quan một chút đến phim "Mưa Đỏ" đình đám gần đây.
Nhưng cá nhân tôi thích cuốn "Dấu Binh Lửa" hơn. Trong Dấu Binh Lửa (tác phẩm đầu tay, 1969), tác giả khắc họa rõ hơn những mặt người trong cuộc chiến tàn khốc. Trong tác phẩm của Phan Nhật Nam độc giả cũng sẽ thấy khói súng, thương tích, hoang mang, thậm chí cái chết, nhưng được mô tả bằng một văn phong gần như thơ, chớ không graphic như trên.
Thử đọc tâm trạng và suy nghĩ của người lính VNCH như Phan Nhật Nam khi bắt được một nữ bộ đội:
"… Chị không hiểu được lời nói của tôi, một người Việt Nam ở cùng trên một mảnh đất. Chị tưởng tôi thèm muốn thân xác và đòi hiếp dâm! Tội nghiệp cho tôi biết bao nhiêu, một tên sĩ quan hai mươi mốt tuổi làm sao có thể biết đời sống đầy máu lửa và đớn đau tủi hổ đến ngần này. Tôi đi lính chỉ với một ý nghĩ: Đi cho cùng quê hương và chấm dứt chiến tranh bằng cách góp mặt. Thê thảm biết bao nhiêu cho tôi với ngộ nhận tủi hổ này. Tôi muốn đưa tay lên gài những chiếc nút áo bật tung, muốn lau nước mắt trên mặt chị, nhưng chân tay cứng ngắc, hổ thẹn. Và chị nữa, người đàn bà quê thật tội nghiệp. Cảnh sống nào đã đưa chị vào cơn sợ hãi mê muội để dẫn dắt những ngón tay cởi tung hàng nút áo, sẵn sàng hiến thân cho một tên lính trẻ, tuổi chỉ bằng em út, trong khi nước mắt chan hòa trên khuôn mặt đôn hậu tràn kinh hãi." (Dấu Binh Lửa).
Phan Nhật Nam tỏ ra đau xót, thẫn thờ và thất vọng trước cái chết quá bi thảm cô gái trẻ vô tội:
"Khi tôi bước ra đàng sau nhà thờ, qua khu nhà ở của những người chết, một chiếc áo tím chắc hẳn của cô gái còn phơi phới bay trong gió… Nhìn ra xa, xác cô gái nằm thẳng trên sàn gạch, nắng thật sáng rọi lên rực rỡ. Người tôi ai cắm một lưỡi dao oan nghiệt vào tim, thật buồn. Tôi loay hoay đốt một điếu thuốc. Cái chết qủa bi thảm, nhưng hình ảnh của cô gái nằm chết khi chiếc áo còn bay trong gió vang vang nơi trí não tôi như một tiếng kêu thê thảm không dứt âm" (Dấu Binh Lửa).
Viết về người bên kia chiến tuyến:
"Nòng súng thượng liên Trung cộng, tiểu liên Tiệp khắc, súng báng đỏ của Nga, những cây súng ngoại quốc bắt đầu… nhắm vào đám lính mang giày Nhật, nón sắt Mỹ, M16. Những ngón tay Việt Nam chờ đợi trái tim Việt Nam đến gần hơn chút nữa."
và:
"Gã nhà quê nầy là kẻ thù của mình? ... Tên Việt cộng khoảng 15 tuổi, xanh mét, run rẩy dưới cơn sợ không gợi cho Thuấn cảm giác về vóc dáng kẻ thù đúng cỡ."
■ So sánh 1: Thái độ với bạo lực
Bảo Ninh: Bạo lực được miêu tả rất graphic, chi tiết sinh học, gần như phô bày sự tàn phá của chiến tranh lên cơ thể con người một cách lạnh lùng, đôi khi có phần khoái cảm trả thù ngầm. Cái chết của người bên kia chiến tuyến thường bị vật thể hóa (cái xác đàn bà trắng hếu, bị đá, bị liệng như đồ vật), hoặc bị mô tả với sự khinh miệt, thóa mạ (con đĩ, đồ cổ, mụ ngụy).
Phan Nhật Nam: Bạo lực vẫn hiện diện (rất nhiều), nhưng hầu như luôn được lọc qua cảm thức đau đớn nhân bản. Ông không né tránh máu me, xác người, nhưng cái nhìn của ông là cái nhìn thương xót đối với cả hai phía. Người chết bên kia (cô gái áo tím, "tên Việt Cộng 15 tuổi") vẫn là con người, vẫn gợi lên lòng trắc ẩn, sự bất lực và tuyệt vọng của chính người lính VNCH. Ông không bao giờ để nhân vật của mình có khoái cảm trả thù khi giết hay hành hạ xác đối phương.
■ So sánh 2: Cách nhìn người bên kia chiến tuyến
Bảo Ninh: Người lính VNCH và 'ngụy' có khi bị phi nhân hóa. Họ là "đồ cổ", "Chí Phèo", "súc vật", "thằng chó má dã man". Ngay cả người chết cũng không còn được nhìn như con người nữa, chỉ là vật cản, là đối tượng để trút giận. Có rất ít (gần như không có) khoảnh khắc nào nhân vật chính cảm thấy thương xót thực sự cho kẻ thù.
Phan Nhật Nam: Luôn có sự đồng cảm đau đớn. Ông gọi họ là "chị", "cô gái", "tên nhà quê", "đứa trẻ 15 tuổi". Ngay cả khi có cái chết, ông vẫn thấy đó là bi kịch của dân tộc: "những ngón tay Việt Nam nhắm vào trái tim Việt Nam".
■ So sánh 3: Ngôn ngữ và văn phòng
Bảo Ninh: Văn phong cứng, gắt, đôi khi thô tục cố ý, nhiều câu ngắn như nhát dao, tạo cảm giác nghẹt thở, điên loạn. Ngôn ngữ đôi chỗ gần với tiếng lính ngoài đời thật (chửi thề, chửi tục), nhưng được đẩy lên thành nghệ thuật của sự phẫn nộ và trả thù. Nhiều đoạn đọc xong thấy ghê rợn và nặng nề.
Phan Nhật Nam: Văn phong mềm mà sắc, gần như thơ trữ tình giữa khói lửa. Dù viết về chiến tranh ác liệt (Quảng Trị 1972), câu văn vẫn rất đẹp, giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu, đầy chất tự sự nội tâm. Ông ít dùng từ tục (dù lính VNCH ngoài đời chửi tục chẳng kém ai), thay vào đó là những câu dài, day dứt, ám ảnh theo kiểu "cái đẹp bị hủy hoại giữa chiến tranh".
■ So sánh 4: Tính phản chiến?
Nỗi Buồn Chiến Tranh thường được ca ngợi là tác phẩm phản chiến tiên phong của văn học đổi mới. Nhưng nếu đọc kĩ, độc giả sẽ thấy nó không phản chiến một cách toàn diện như nhiều người bảo thủ nghĩ đâu. Nó chỉ phản chiến ở chỗ nói được nỗi đau của người lính bên thắng cuộc (điều trước đó bị cấm kị). Còn đối với bên kia, nó vẫn đầy định kiến sắt máu và khoái cảm trả thù.
Phan Nhật Nam mới thực sự là phản chiến theo nghĩa nhân bản: ông đau đớn vì cả hai bên đều là người Việt giết nhau, đều là nạn nhân của lịch sử. Ông không cần phải "được phép" nói như các nhà văn khác; ông nói từ rất sớm, ngay giữa chiến tranh, và nói bằng cả trái tim tan nát của một người lính trẻ.
Tóm lại, tôi đọc Nỗi Buồn Chiến Tranh một lần và không dám đọc lại, còn đọc Dấu Binh Lửa và các tạp bút của Phan Nhật Nam nhiều lần, mỗi lần vẫn thấy đau thắt ở ngực.
Một bên là tiếng gào của người thắng muốn cho cả thế giới biết mình cũng đau, dù đã thắng; một bên là tiếng khóc thầm của người thua, nhưng vẫn khóc thương cả cho người thắng.
Đó là sự khác biệt lớn nhứt giữa hai văn phong và cũng là bi kịch của văn học chiến tranh Việt Nam: cả hai đều là bậc tài năng, nhưng một người viết bằng máu trả thù, còn một người viết bằng nước mắt của lòng nhân. Có thể tác giả không phải là người như vậy, nhưng văn chương của họ buộc người đọc hiểu theo nghĩa đó.
Bảo Ninh quăng xác kẻ thù trên trang giấy; Phan Nhật Nam ôm lấy cả kẻ thù mà khóc. Năm 1990, cả thế giới ngợi ca Bảo Ninh dám viết về nỗi đau chiến tranh và điều này đúng. Nhưng 20 năm trước đó, một sĩ quan trẻ tên Phan Nhật Nam đã viết những dòng đau hơn gấp bội -- và chẳng ai được phép đọc/nghe.
December 5 at 12:44 AM
"Nỗi Buồn Chiến Tranh" và "Dấu Binh Lửa"
Đó là hai tác phẩm của hai nhà văn thuộc hai bên chiến tuyến. Cùng viết về xác người giữa chiến trường, một bên ném cái xác như ném bao tải, một bên khóc thầm trước chiếc áo tím còn bay trong gió.
Tác phẩm "Nổi Buồn Chiến Tranh" (NBCT) của Nhà văn Bảo Ninh được vinh danh, và vậy là có lời ra tiếng vào. Tôi nghĩ vinh danh ok mà.
Ở đây, tôi liên tưởng tới một nhà văn quân đội khác, thuộc bên kia chiến tuyến: Phan Nhật Nam. So sánh cách họ viết cũng ngộ ra vài điều.
Hồi đó (tức ~30 năm trước), khi sách mới xuất bản, NBCT được giới thiệu như là một 'sản phẩm' của trào lưu đổi mới văn học Việt Nam. Tác giả dám nói đến những mất mát và đau thương trong thời chiến, vốn là một đề tài cấm kị trước đó. Giới phê bình văn học, trong và ngoài nước, nhận xét rằng NBCT thể hiện một suy nghĩ nghệ thuật mới mẻ. Và, đúng như vậy.
■ Văn chương 'graphic'
Thấy giới thiệu nồng nhiệt như vậy, tôi cũng cố gắng tìm mua để đọc. Tôi đọc NBCT một lần. Nhưng không dám đọc lại lần nữa vì hình ảnh trong đó quá … 'ấn tượng'.
Dĩ nhiên, nhà văn là người có tài viết văn hay, và quả thật trong sách có nhiều câu văn đẹp.
Nhưng trong tiểu thuyết cũng có những đoạn văn rất ... khó đọc. Thử đọc một đoạn trong NBCT mô tả cái nhìn của nhân vật chánh trong tiểu thuyết tên Kiên:
"Kiên hờ hững ngó ra sau. À. Một cái xác. Một cái xác đàn bà trắng hếu, ngưc ưỡn dựng lên, chân dang ra như hai lưỡi léo, mái tóc đổ xõa che lấp nửa mặt, nằm gần như chắn ngang trước cửa phòng hải quan. Còn trẻ, mắt nhắm hờ. Dưới lưng không thấy vũng máu…"
và đoạn mô tả đối phương:
"[...] Một gã hộ pháp. Ðội mũ sắt, có lẽ là lính cao xạ từ trong phòng hải quan đi ra khệ nệ khuân trên tay hai két bia 33. Bước qua ngưỡng cửa mắt nghếch lên, gã vấp phải cái xác bị xô chúi tới, ngã sấp. Cả đống bia giáng xuống loảng choảng chai vỡ tan, bia óng vàng tuôn lênh láng. Ðám lính tăng cười ro. Kiên nhếch mép.
Sượng sùng gã sục 'đồ cổ' nhỏm dậy tức tối vò hai nắm đấm gườm gườm nhìn những kẻ đang cười nhạo mình. Rồi nhổ toẹt, hầm hầm cái mặt, hắn sấn lại đá tới tấp vào cái vật vừa ngáng chân hắn Vừa đá vừa rống lên:
'Ð mẹ mầy, con đĩ! Mày ưỡn của nợ ra đây cho chúng nó ngắm à! Mày gài mìn bố mày! Tổ sư mày, cười cái cắc củ! Ðứa nào thích ngắm nghía mày thì kệ bố mày! Bố mày cứ dọn phắt mày đi!'
Chửi đoạn, thằng cha 'Chí Phèo' túm lấy một chân người chết xềnh xệch kéo lết đi.
Thằng chó má dã man léo sền sệt cái xác khốn khổ qua mặt sân bê tông loáng sáng nước mưa và nắng chói, rồi hự, hắn choãi chân vặn lưng lấy đà quăng mạnh, liệng bổng người ta lên.
Xoay lộn mấy vòng, cái xác trắng rợn bay chênh chếch rồi thịch xuống cạnh mấy cái thây lính dù chưa ai dọn. Lưng vừa chạm đất, người đàn bà chết ngồi bật dậy, hai tay đưa vung lên, cái miệng tuồng như há ra chực kêu rồi ngã vật nghiêng, đập đầu xuống. Tên súc sinh khệnh khạng bỏ đi tay khuỳnh khuỳnh ra dáng người hùng…"
Thật ra, văn chương bạo lực và 'graphic' như vầy khá phổ biến ở các tác giả khác nữa. Độc giả sẽ phải gặp những câu đầy ám ảnh như "mụ ngụy cái ngực vỡ toác", "moi tim gan nướng ăn tại chỗ", "xẻo vú bộ đội nữ", v.v. Thử đọc một đoạn sau đây của một nhà văn nổi tiếng:
"… quân ta ào lên, bắt giết, đâm, dẫm đạp. Một mụ ngụy cái, ngực để trần, miệng há ra ú ớ. Niềm căm thù kẻ hạnh phúc hơn mình bốc lên ngùn ngụt trong ngực mình. Mình găm vào ngực mụ cả loạt khiến ngực mụ vỡ toác mà mặt mụ vẫn chưa hết hy vọng. Giết người lúc ấy sao thấy sướng thế! Một thằng ngụy bị mình xọc lê vào bụng, nghe 'thụt' một cái. Mình nghiến răng vặn lê rồi trở báng súng phang vào giữa mặt hắn. Hắn lộn một vòng, gồng mình giẫy chết như con tôm sống bị ném vào chảo mỡ…"
Đó là cách mà một số nhà văn mô tả những kẻ thuộc bên kia chiến tuyến.
Đọc lên mà thấy ghê rợn. Người phương Tây gọi là cách viết 'graphic'. Họ có thể viết ra những câu chữ đó làm tôi kinh ngạc.
■ Làm tôi liên tưởng tới một nhà văn quân đội bên kia chiến tuyến: Phan Nhật Nam.
Phan Nhật Nam là một nhà văn nổi tiếng thời trước 1975. Ông người gốc Quảng Trị. Thân phụ ông là người bên kia chiến tuyến, và từng là đảng viên Đảng CSVN. Sau 1975, ông bị bắt đi tù cải tạo suốt 14 năm trời, trước khi sang Mĩ định cư.
Nói đến Phan Nhật Nam, những người thuộc thế hệ tôi đều nghĩ ngay đến cuốn "Mùa Hè Đỏ Lửa". Đó là một loại tuỳ bút được viết ra trong trận chiến ở Quảng Trị vào năm 1973, có liên quan một chút đến phim "Mưa Đỏ" đình đám gần đây.
Nhưng cá nhân tôi thích cuốn "Dấu Binh Lửa" hơn. Trong Dấu Binh Lửa (tác phẩm đầu tay, 1969), tác giả khắc họa rõ hơn những mặt người trong cuộc chiến tàn khốc. Trong tác phẩm của Phan Nhật Nam độc giả cũng sẽ thấy khói súng, thương tích, hoang mang, thậm chí cái chết, nhưng được mô tả bằng một văn phong gần như thơ, chớ không graphic như trên.
Thử đọc tâm trạng và suy nghĩ của người lính VNCH như Phan Nhật Nam khi bắt được một nữ bộ đội:
"… Chị không hiểu được lời nói của tôi, một người Việt Nam ở cùng trên một mảnh đất. Chị tưởng tôi thèm muốn thân xác và đòi hiếp dâm! Tội nghiệp cho tôi biết bao nhiêu, một tên sĩ quan hai mươi mốt tuổi làm sao có thể biết đời sống đầy máu lửa và đớn đau tủi hổ đến ngần này. Tôi đi lính chỉ với một ý nghĩ: Đi cho cùng quê hương và chấm dứt chiến tranh bằng cách góp mặt. Thê thảm biết bao nhiêu cho tôi với ngộ nhận tủi hổ này. Tôi muốn đưa tay lên gài những chiếc nút áo bật tung, muốn lau nước mắt trên mặt chị, nhưng chân tay cứng ngắc, hổ thẹn. Và chị nữa, người đàn bà quê thật tội nghiệp. Cảnh sống nào đã đưa chị vào cơn sợ hãi mê muội để dẫn dắt những ngón tay cởi tung hàng nút áo, sẵn sàng hiến thân cho một tên lính trẻ, tuổi chỉ bằng em út, trong khi nước mắt chan hòa trên khuôn mặt đôn hậu tràn kinh hãi." (Dấu Binh Lửa).
Phan Nhật Nam tỏ ra đau xót, thẫn thờ và thất vọng trước cái chết quá bi thảm cô gái trẻ vô tội:
"Khi tôi bước ra đàng sau nhà thờ, qua khu nhà ở của những người chết, một chiếc áo tím chắc hẳn của cô gái còn phơi phới bay trong gió… Nhìn ra xa, xác cô gái nằm thẳng trên sàn gạch, nắng thật sáng rọi lên rực rỡ. Người tôi ai cắm một lưỡi dao oan nghiệt vào tim, thật buồn. Tôi loay hoay đốt một điếu thuốc. Cái chết qủa bi thảm, nhưng hình ảnh của cô gái nằm chết khi chiếc áo còn bay trong gió vang vang nơi trí não tôi như một tiếng kêu thê thảm không dứt âm" (Dấu Binh Lửa).
Viết về người bên kia chiến tuyến:
"Nòng súng thượng liên Trung cộng, tiểu liên Tiệp khắc, súng báng đỏ của Nga, những cây súng ngoại quốc bắt đầu… nhắm vào đám lính mang giày Nhật, nón sắt Mỹ, M16. Những ngón tay Việt Nam chờ đợi trái tim Việt Nam đến gần hơn chút nữa."
và:
"Gã nhà quê nầy là kẻ thù của mình? ... Tên Việt cộng khoảng 15 tuổi, xanh mét, run rẩy dưới cơn sợ không gợi cho Thuấn cảm giác về vóc dáng kẻ thù đúng cỡ."
■ So sánh 1: Thái độ với bạo lực
Bảo Ninh: Bạo lực được miêu tả rất graphic, chi tiết sinh học, gần như phô bày sự tàn phá của chiến tranh lên cơ thể con người một cách lạnh lùng, đôi khi có phần khoái cảm trả thù ngầm. Cái chết của người bên kia chiến tuyến thường bị vật thể hóa (cái xác đàn bà trắng hếu, bị đá, bị liệng như đồ vật), hoặc bị mô tả với sự khinh miệt, thóa mạ (con đĩ, đồ cổ, mụ ngụy).
Phan Nhật Nam: Bạo lực vẫn hiện diện (rất nhiều), nhưng hầu như luôn được lọc qua cảm thức đau đớn nhân bản. Ông không né tránh máu me, xác người, nhưng cái nhìn của ông là cái nhìn thương xót đối với cả hai phía. Người chết bên kia (cô gái áo tím, "tên Việt Cộng 15 tuổi") vẫn là con người, vẫn gợi lên lòng trắc ẩn, sự bất lực và tuyệt vọng của chính người lính VNCH. Ông không bao giờ để nhân vật của mình có khoái cảm trả thù khi giết hay hành hạ xác đối phương.
■ So sánh 2: Cách nhìn người bên kia chiến tuyến
Bảo Ninh: Người lính VNCH và 'ngụy' có khi bị phi nhân hóa. Họ là "đồ cổ", "Chí Phèo", "súc vật", "thằng chó má dã man". Ngay cả người chết cũng không còn được nhìn như con người nữa, chỉ là vật cản, là đối tượng để trút giận. Có rất ít (gần như không có) khoảnh khắc nào nhân vật chính cảm thấy thương xót thực sự cho kẻ thù.
Phan Nhật Nam: Luôn có sự đồng cảm đau đớn. Ông gọi họ là "chị", "cô gái", "tên nhà quê", "đứa trẻ 15 tuổi". Ngay cả khi có cái chết, ông vẫn thấy đó là bi kịch của dân tộc: "những ngón tay Việt Nam nhắm vào trái tim Việt Nam".
■ So sánh 3: Ngôn ngữ và văn phòng
Bảo Ninh: Văn phong cứng, gắt, đôi khi thô tục cố ý, nhiều câu ngắn như nhát dao, tạo cảm giác nghẹt thở, điên loạn. Ngôn ngữ đôi chỗ gần với tiếng lính ngoài đời thật (chửi thề, chửi tục), nhưng được đẩy lên thành nghệ thuật của sự phẫn nộ và trả thù. Nhiều đoạn đọc xong thấy ghê rợn và nặng nề.
Phan Nhật Nam: Văn phong mềm mà sắc, gần như thơ trữ tình giữa khói lửa. Dù viết về chiến tranh ác liệt (Quảng Trị 1972), câu văn vẫn rất đẹp, giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu, đầy chất tự sự nội tâm. Ông ít dùng từ tục (dù lính VNCH ngoài đời chửi tục chẳng kém ai), thay vào đó là những câu dài, day dứt, ám ảnh theo kiểu "cái đẹp bị hủy hoại giữa chiến tranh".
■ So sánh 4: Tính phản chiến?
Nỗi Buồn Chiến Tranh thường được ca ngợi là tác phẩm phản chiến tiên phong của văn học đổi mới. Nhưng nếu đọc kĩ, độc giả sẽ thấy nó không phản chiến một cách toàn diện như nhiều người bảo thủ nghĩ đâu. Nó chỉ phản chiến ở chỗ nói được nỗi đau của người lính bên thắng cuộc (điều trước đó bị cấm kị). Còn đối với bên kia, nó vẫn đầy định kiến sắt máu và khoái cảm trả thù.
Phan Nhật Nam mới thực sự là phản chiến theo nghĩa nhân bản: ông đau đớn vì cả hai bên đều là người Việt giết nhau, đều là nạn nhân của lịch sử. Ông không cần phải "được phép" nói như các nhà văn khác; ông nói từ rất sớm, ngay giữa chiến tranh, và nói bằng cả trái tim tan nát của một người lính trẻ.
Tóm lại, tôi đọc Nỗi Buồn Chiến Tranh một lần và không dám đọc lại, còn đọc Dấu Binh Lửa và các tạp bút của Phan Nhật Nam nhiều lần, mỗi lần vẫn thấy đau thắt ở ngực.
Một bên là tiếng gào của người thắng muốn cho cả thế giới biết mình cũng đau, dù đã thắng; một bên là tiếng khóc thầm của người thua, nhưng vẫn khóc thương cả cho người thắng.
Đó là sự khác biệt lớn nhứt giữa hai văn phong và cũng là bi kịch của văn học chiến tranh Việt Nam: cả hai đều là bậc tài năng, nhưng một người viết bằng máu trả thù, còn một người viết bằng nước mắt của lòng nhân. Có thể tác giả không phải là người như vậy, nhưng văn chương của họ buộc người đọc hiểu theo nghĩa đó.
Bảo Ninh quăng xác kẻ thù trên trang giấy; Phan Nhật Nam ôm lấy cả kẻ thù mà khóc. Năm 1990, cả thế giới ngợi ca Bảo Ninh dám viết về nỗi đau chiến tranh và điều này đúng. Nhưng 20 năm trước đó, một sĩ quan trẻ tên Phan Nhật Nam đã viết những dòng đau hơn gấp bội -- và chẳng ai được phép đọc/nghe.
Wednesday, October 08, 2025
CUỘC “GẶP LẠI” CỦA ANH BỘ ĐỘI BẮC VIỆT VỚI VỊ BÁC SĨ QUÂN Y VNCH | ✍️Lam Nguyen
CUỘC "GẶP LẠI" CỦA ANH BỘ ĐỘI BẮC VIỆT VỚI VỊ BÁC SĨ QUÂN Y VNCH
Lam Nguyen
Vậy là sau 53 năm có duyên gặp gỡ và cũng khoảng hơn 30 năm tìm kiếm, cuối cùng anh bộ đội có gương mặt thư sinh như trong ảnh đã "gặp" lại vị ân nhân của mình để bày tỏ lòng biết ơn vô hạn.
Đây là những hình ảnh đã lưu lại trong ký ức của anh Phạm Hùng Phong suốt mấy chục năm qua: Những ngày nằm đó điều trị (khu điều trị thương binh là tù binh nằm cuối dãy nhà, tách biệt với khu điều trị thương binh VNCH) tôi nhớ là khoảng ba tháng trời.
Chiều nào nhìn qua cửa sổ tôi cũng thấy Bs Khánh đi về.
Lúc này ông đã cởi bỏ áo blouse trắng và mặc bộ quân phục có mấy bông mai trên ve áo.
Tôi cứ nhớ mãi hình ảnh ông leo lên chiếc Vespa Sprint chạy đi"
Hình ảnh đó theo anh Phong mãi cho đến khi có điều kiện sang Mỹ năm 2010, anh nhờ bạn bè, người quen dọ hỏi tin tức Bs Khánh nhưng vô vọng.
Khi nghe câu chuyện này, năm 2019, mình đã đăng lại và cũng dọ hỏi một số người quen có cha là sĩ quan VNCH với hy vọng có ai đó biết ông.
Nhưng thật thất vọng.
Cho đến cách đây vài ngày, khi anh Phong nhờ mình đăng thông tin tìm người anh họ hiện sống ở Mỹ thì may mắn thay, có một người nhắc đến Bs Khánh.
Tối qua, anh Phong đã "gặp" Bs Khánh qua tin nhắn.
Do sức khoẻ của bác sĩ không được tốt, anh đã nhắn tin và nhờ vợ của ông đọc cho ông nghe.
Anh viết: "Em kính chào anh Khánh, cựu bác sỹ tổng y viện Duy Tân - Đà nẵng, anh chắc không thể nhớ hết các bệnh nhân cựu quân nhân Vnch dịp mùa hè đỏ lửa 1972 mà anh đã cứu chữa, càng không thể nhớ đến "thằng tù bình Vc" bị gãy chân và hư 1 mắt là em..
Em vẫn nhớ như in hằng sáng anh đi thăm khám cho các bệnh nhân tù binh rất tận tình, chu đáo, vết thương chân (gãy 2 xương) phải khoét 1 ô bột ở cẳng chân để thay băng hằng ngày .., anh còn phát hiện 1 con mắt của em bị hư do mảnh đạn bắn vào, anh cho thuốc bổ mắt… hành động thật nhân đạo, tình người của các bác sĩ VNCH em không bao giờ quên…
Sau bao năm em hỏi dò anh trên cộng đồng mạng tìm anh, đến hôm nay được gặp anh thì không may anh lại đang đau ốm không nói chuyện cùng nhau được, em rất buồn và thương anh…
Em sẽ cố gắng năm 2026 sẽ đi Mỹ để ghé thăm anh và gia đình nhà mình…
Em xin tặng anh tấm hình em chụp năm 1972 trước khi gặp anh 2 tháng, và hình em hiện nay - nhờ anh mà em mới có được như ngày hôm nay.
Em kính chào Anh".
Đáp lời của anh Phong, bà Bs Khánh nói lời cảm ơn anh đã nhớ đến gia đình và hy vọng nếu có duyên nợ thì mong gặp lại.
Và bà cho biết, khi nghe vợ đọc những lời nhắn gởi của anh, Bác sĩ Khánh đã mỉm cười.
Mình tin là vị bác sĩ nhân đức này không bao giờ ngờ được có một tù binh Việt cộng luôn nhớ đến ông với lòng biết ơn vô hạn như vậy.
Nụ cười của ông cho thấy ông đang vui và cảm thấy ấm áp vô cùng về cuộc đời hành nghề cứu người của mình.
Câu chuyện về anh bộ đội Phạm Hùng Phong bị thương nặng và được cứu chữa ra sao đã có nhiều người biết.
Tuy vậy mình vẫn đăng lại để lưu vào FB cho trọn vẹn một câu chuyện đẹp dẽ.
********************
Ngày đó, trong trận đánh ở Cổ Thành Quãng Trị, Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972, lúc đó anh Phạm Hùng Phong mới 19 tuổi đã bị thương nặng, có nguy cơ bị cắt bỏ hai chân và có thể mù mắt.
Sau đây là câu chuyện của anh Phong được kể lại từ anh Vinh Nguyễn và Tho Nguyen.
" Phong bị trúng 2 mảnh đạn, một mảnh vào đầu, một mảnh xuyên thái dương vào sau mắt phải, ngất đi.
Do nằm cạnh cửa hầm, sau đó anh còn bị 2 phát đạn AR15 bắn thẳng vào cẳng chân.
Khi tỉnh dậy, anh thấy mình đang nằm trong một chiếc lều bạt của Thủy quân lục chiến (TQLC).
Mấy người lính nói giọng miền Nam và giọng Huế đang lao xao quanh anh.
Một người lính đeo túi cứu thương cắm phập mũi kim vào vai anh, tiêm 1 liều chống uốn ván, rồi tiến hành băng bó các vết thương.
Họ nói trong khi lục soát trận địa, thấy anh còn thoi thóp thở, họ đã khiêng anh về đây.
Chắc quân ta tưởng anh đã chết nên khi rút đã bỏ lại.
Sau này gia đình anh còn nhận được Giấy báo tử là anh đã hy sinh ở mặt trận phía Nam.
Sau khi bị thẩm vấn qua loa, anh khai là Binh nhì thuộc Trung đoàn 48, F320B, họ đưa anh lên xe tải cùng 1 số tù binh khác và chở về Huế.
Trong số tù binh đó anh nhìn thấy khoảng 10 đồng đội cùng C1 E48, có cả Đại đội trưởng Mai người Hải phòng, Trung đội trưởng Đông, và cậu Sơn cùng đơn vị huấn luyện...
Nhưng tất cả đều khai là lính mới, mới được bổ sung vào Thành đêm qua, và không ai biết ai cả.
TQLC chở anh vào nằm ở Bệnh viện Nguyễn Tri Phương 2 ngày, thấy vết thương khá nặng, họ lại đưa anh ra sân bay Phú Bài tải thương về Đà nẵng.
Trên chiếc máy bay C130, ghế ngồi đã được tháo hết, khoang máy bay được cải tạo thành những giá để băng ca, có 5 tầng giá như vậy.
Băng ca với thương binh được đẩy vào theo đường ray, rồi xếp lên các giá như xếp sách trong thư viện.
Hạ cánh xuống sân bay Đà nẵng, trong khi chờ xe tải ra chở đi, anh tò mò ngắm nhìn cảnh vật xung quanh.
Đúng là 1 thế giới khác hẳn, ồn ào ầm ĩ, đầy ngập vật chất và kỹ thuật hiện đại…
Xe tải nhà binh chở anh về Tổng y viện Duy Tân điều trị.
Đó là 1 Quân y viện rất lớn, chủ yếu điều trị thương binh VNCH, nhưng cũng có một khu dành riêng để điều trị thương binh, tù binh CS.
Khu vực này có Quân cảnh canh gác, còn lại thì không có gì khác biệt trong cách đối xử.
Các anh được hưởng quy chế Tù binh của Liên Hợp Quốc, 1 USD/ ngày, còn các chế độ bệnh viện, thuốc men, ăn uống...thì cũng như Thương binh VNCH vậy.
Chân anh Phong bị gẫy nên phải bó bột, người ta còn khoét 1 lỗ để thay băng cho vết thương phần mềm ở cẳng chân.
Bác sỹ Quân y này tên Khánh, vốn là người Bắc di cư, quê ở phố hàng Đào Hà nội.
Thấy anh Phong nói mình cũng là người Hà Nội ở Phố Phan Bội Châu, ông tỏ ra có cảm tình với anh.
Ông đã làm tất cả để anh không bị cưa chân và khoét mắt.
Sau này, vào năm 2010, có dịp sang Mỹ, anh đã tìm đến Quận Cam dò tìm Bác sỹ Khánh để tri ân.
Nhưng tiếc thay, đáy biển mò kim, không thể nào tìm được."
(Vinh Nguyễn)
"Anh Phong mong muốn nhờ bạn bè FB tìm hộ bác sỹ Khánh, nghe nói đang định cư bên Mỹ.
Tất cả chúng ta ở đây, ai cũng mong cuộc hội ngộ này xảy ra.
Trong thời gian điều trị ở Tổng y viện Duy Tân (Đà Nẵng).
Ở đó, các thương bệnh binh Bắc Việt được điều trị trong một khu riêng có hàng rào thép gai, do Quân cảnh canh gác.
Nhưng chiều chiều, các thương binh VNCH vẫn kéo đến bên hàng rào bắt chuyện với các tù binh Việt Cộng và họ hay mang thuốc lá cho các anh.
Phong và nhiều anh em tù binh khá ngỡ ngàng trước sự thân thiện của những người đồng bào từ phía bên kia.
Nguồn: https://www.facebook.com/share/p/16iVkzUKnX/?mibextid=wwXIfr
(Pham My Lan).
Lam Nguyen
Vậy là sau 53 năm có duyên gặp gỡ và cũng khoảng hơn 30 năm tìm kiếm, cuối cùng anh bộ đội có gương mặt thư sinh như trong ảnh đã "gặp" lại vị ân nhân của mình để bày tỏ lòng biết ơn vô hạn.
Đây là những hình ảnh đã lưu lại trong ký ức của anh Phạm Hùng Phong suốt mấy chục năm qua: Những ngày nằm đó điều trị (khu điều trị thương binh là tù binh nằm cuối dãy nhà, tách biệt với khu điều trị thương binh VNCH) tôi nhớ là khoảng ba tháng trời.
Chiều nào nhìn qua cửa sổ tôi cũng thấy Bs Khánh đi về.
Lúc này ông đã cởi bỏ áo blouse trắng và mặc bộ quân phục có mấy bông mai trên ve áo.
Tôi cứ nhớ mãi hình ảnh ông leo lên chiếc Vespa Sprint chạy đi"
Hình ảnh đó theo anh Phong mãi cho đến khi có điều kiện sang Mỹ năm 2010, anh nhờ bạn bè, người quen dọ hỏi tin tức Bs Khánh nhưng vô vọng.
Khi nghe câu chuyện này, năm 2019, mình đã đăng lại và cũng dọ hỏi một số người quen có cha là sĩ quan VNCH với hy vọng có ai đó biết ông.
Nhưng thật thất vọng.
Cho đến cách đây vài ngày, khi anh Phong nhờ mình đăng thông tin tìm người anh họ hiện sống ở Mỹ thì may mắn thay, có một người nhắc đến Bs Khánh.
Tối qua, anh Phong đã "gặp" Bs Khánh qua tin nhắn.
Do sức khoẻ của bác sĩ không được tốt, anh đã nhắn tin và nhờ vợ của ông đọc cho ông nghe.
Anh viết: "Em kính chào anh Khánh, cựu bác sỹ tổng y viện Duy Tân - Đà nẵng, anh chắc không thể nhớ hết các bệnh nhân cựu quân nhân Vnch dịp mùa hè đỏ lửa 1972 mà anh đã cứu chữa, càng không thể nhớ đến "thằng tù bình Vc" bị gãy chân và hư 1 mắt là em..
Em vẫn nhớ như in hằng sáng anh đi thăm khám cho các bệnh nhân tù binh rất tận tình, chu đáo, vết thương chân (gãy 2 xương) phải khoét 1 ô bột ở cẳng chân để thay băng hằng ngày .., anh còn phát hiện 1 con mắt của em bị hư do mảnh đạn bắn vào, anh cho thuốc bổ mắt… hành động thật nhân đạo, tình người của các bác sĩ VNCH em không bao giờ quên…
Sau bao năm em hỏi dò anh trên cộng đồng mạng tìm anh, đến hôm nay được gặp anh thì không may anh lại đang đau ốm không nói chuyện cùng nhau được, em rất buồn và thương anh…
Em sẽ cố gắng năm 2026 sẽ đi Mỹ để ghé thăm anh và gia đình nhà mình…
Em xin tặng anh tấm hình em chụp năm 1972 trước khi gặp anh 2 tháng, và hình em hiện nay - nhờ anh mà em mới có được như ngày hôm nay.
Em kính chào Anh".
Đáp lời của anh Phong, bà Bs Khánh nói lời cảm ơn anh đã nhớ đến gia đình và hy vọng nếu có duyên nợ thì mong gặp lại.
Và bà cho biết, khi nghe vợ đọc những lời nhắn gởi của anh, Bác sĩ Khánh đã mỉm cười.
Mình tin là vị bác sĩ nhân đức này không bao giờ ngờ được có một tù binh Việt cộng luôn nhớ đến ông với lòng biết ơn vô hạn như vậy.
Nụ cười của ông cho thấy ông đang vui và cảm thấy ấm áp vô cùng về cuộc đời hành nghề cứu người của mình.
Câu chuyện về anh bộ đội Phạm Hùng Phong bị thương nặng và được cứu chữa ra sao đã có nhiều người biết.
Tuy vậy mình vẫn đăng lại để lưu vào FB cho trọn vẹn một câu chuyện đẹp dẽ.
********************
Ngày đó, trong trận đánh ở Cổ Thành Quãng Trị, Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972, lúc đó anh Phạm Hùng Phong mới 19 tuổi đã bị thương nặng, có nguy cơ bị cắt bỏ hai chân và có thể mù mắt.
Sau đây là câu chuyện của anh Phong được kể lại từ anh Vinh Nguyễn và Tho Nguyen.
" Phong bị trúng 2 mảnh đạn, một mảnh vào đầu, một mảnh xuyên thái dương vào sau mắt phải, ngất đi.
Do nằm cạnh cửa hầm, sau đó anh còn bị 2 phát đạn AR15 bắn thẳng vào cẳng chân.
Khi tỉnh dậy, anh thấy mình đang nằm trong một chiếc lều bạt của Thủy quân lục chiến (TQLC).
Mấy người lính nói giọng miền Nam và giọng Huế đang lao xao quanh anh.
Một người lính đeo túi cứu thương cắm phập mũi kim vào vai anh, tiêm 1 liều chống uốn ván, rồi tiến hành băng bó các vết thương.
Họ nói trong khi lục soát trận địa, thấy anh còn thoi thóp thở, họ đã khiêng anh về đây.
Chắc quân ta tưởng anh đã chết nên khi rút đã bỏ lại.
Sau này gia đình anh còn nhận được Giấy báo tử là anh đã hy sinh ở mặt trận phía Nam.
Sau khi bị thẩm vấn qua loa, anh khai là Binh nhì thuộc Trung đoàn 48, F320B, họ đưa anh lên xe tải cùng 1 số tù binh khác và chở về Huế.
Trong số tù binh đó anh nhìn thấy khoảng 10 đồng đội cùng C1 E48, có cả Đại đội trưởng Mai người Hải phòng, Trung đội trưởng Đông, và cậu Sơn cùng đơn vị huấn luyện...
Nhưng tất cả đều khai là lính mới, mới được bổ sung vào Thành đêm qua, và không ai biết ai cả.
TQLC chở anh vào nằm ở Bệnh viện Nguyễn Tri Phương 2 ngày, thấy vết thương khá nặng, họ lại đưa anh ra sân bay Phú Bài tải thương về Đà nẵng.
Trên chiếc máy bay C130, ghế ngồi đã được tháo hết, khoang máy bay được cải tạo thành những giá để băng ca, có 5 tầng giá như vậy.
Băng ca với thương binh được đẩy vào theo đường ray, rồi xếp lên các giá như xếp sách trong thư viện.
Hạ cánh xuống sân bay Đà nẵng, trong khi chờ xe tải ra chở đi, anh tò mò ngắm nhìn cảnh vật xung quanh.
Đúng là 1 thế giới khác hẳn, ồn ào ầm ĩ, đầy ngập vật chất và kỹ thuật hiện đại…
Xe tải nhà binh chở anh về Tổng y viện Duy Tân điều trị.
Đó là 1 Quân y viện rất lớn, chủ yếu điều trị thương binh VNCH, nhưng cũng có một khu dành riêng để điều trị thương binh, tù binh CS.
Khu vực này có Quân cảnh canh gác, còn lại thì không có gì khác biệt trong cách đối xử.
Các anh được hưởng quy chế Tù binh của Liên Hợp Quốc, 1 USD/ ngày, còn các chế độ bệnh viện, thuốc men, ăn uống...thì cũng như Thương binh VNCH vậy.
Chân anh Phong bị gẫy nên phải bó bột, người ta còn khoét 1 lỗ để thay băng cho vết thương phần mềm ở cẳng chân.
Bác sỹ Quân y này tên Khánh, vốn là người Bắc di cư, quê ở phố hàng Đào Hà nội.
Thấy anh Phong nói mình cũng là người Hà Nội ở Phố Phan Bội Châu, ông tỏ ra có cảm tình với anh.
Ông đã làm tất cả để anh không bị cưa chân và khoét mắt.
Sau này, vào năm 2010, có dịp sang Mỹ, anh đã tìm đến Quận Cam dò tìm Bác sỹ Khánh để tri ân.
Nhưng tiếc thay, đáy biển mò kim, không thể nào tìm được."
(Vinh Nguyễn)
"Anh Phong mong muốn nhờ bạn bè FB tìm hộ bác sỹ Khánh, nghe nói đang định cư bên Mỹ.
Tất cả chúng ta ở đây, ai cũng mong cuộc hội ngộ này xảy ra.
Trong thời gian điều trị ở Tổng y viện Duy Tân (Đà Nẵng).
Ở đó, các thương bệnh binh Bắc Việt được điều trị trong một khu riêng có hàng rào thép gai, do Quân cảnh canh gác.
Nhưng chiều chiều, các thương binh VNCH vẫn kéo đến bên hàng rào bắt chuyện với các tù binh Việt Cộng và họ hay mang thuốc lá cho các anh.
Phong và nhiều anh em tù binh khá ngỡ ngàng trước sự thân thiện của những người đồng bào từ phía bên kia.
Nguồn: https://www.facebook.com/share/p/16iVkzUKnX/?mibextid=wwXIfr
(Pham My Lan).
Wednesday, September 24, 2025
Sunday, September 21, 2025
TÊN PHẢN ĐỘNG CHU LAI LÀM BỂ MẶT BỌN VC TAY SAI BÁN NƯỚC.
Có một chuyện-thời-sự-lớn của đất nước mà gần như đại đa số các bạn U60 hoàn toàn không biết! Còn các bạn lớn tuổi hơn cũng gần như tất cả đã... quên rồi!!
Đó là chuyện Nhà nước ta đã từng phát động trên toàn quốc một cuộc thi sáng tác... quốc ca mới!
Năm 1981, Chính phủ, lúc đó gọi là "Hội đồng Bộ trưởng" thống nhất với Ủy ban Thường vụ Quốc Hội thành lập một "Ban Vận động Sáng tác Quốc ca mới" và một Ban Giám khảo tuyển chọn các tác phẩm gửi về từ trên cả nước.
Lý do là thời điểm đó tuy vẫn còn tư duy bao cấp nhưng VN đã bắt đầu được "he hé mắt" nhìn ra thế giới.
Một số quan điểm tiến bộ trong nhân dân và hàng ngũ lãnh đạo đã nhìn thấy xu hướng hội nhập với thế giới văn minh...
Do đó, có nhiều ý kiến cho rằng bài "Tiến quân ca" tuy nhạc điệu rất hay, hoàn toàn xứng đáng là một bản Quốc ca nhưng phần lời thì không ổn. Tuy mang câu chữ mạnh mẽ của tinh thần cứu nước, nhưng lại có vẻ hung bạo, "đằng đằng sát khí":
"... Cờ in MÁU chiến thắng...", "... Đường vinh quang xây XÁC QUÂN THÙ... "
Cùng với đó, quốc kỳ của ta cũng một màu đỏ rực. Màu đỏ tuy là màu chiến thắng, màu của CM, nhưng cũng là màu của MÁU, màu của LỬA CHÁY...
Kết hợp quốc kỳ đó với bài "Tiến quân ca" dễ tạo cho những người yêu chuộng hòa bình cảm giác VN là một đất nước hiếu chiến, hiếu sát!
"... Cờ in MÁU chiến thắng...", "... Đường vinh quang xây XÁC QUÂN THÙ... "
Sau cuộc chiến khốc liệt với Trung Quốc xâm lược, lãnh đạo Đảng và NN ta vẫn xác định rõ ràng "kẻ thù của chúng ta là bè lũ cầm quyền Bắc Kinh bá quyền, bành trướng chứ không phải là nhân dân Trung Quốc".
Cũng như vậy, trong mọi cuộc chiến tranh, những người lính đối phương cũng chỉ là nạn nhân của tham vọng, mưu đồ từ bọn lãnh đạo...
Từ đó, thấy rõ lời hát của bài "Tiến quân ca" là không ổn. Nhưng xét về giá trị lịch sử, một tác phẩm văn hóa, nghệ thuật là một chỉnh thể thống nhất, không thể xóa bỏ hay sửa đổi một phần nào.
Vì vậy, khi bước sang thời kỳ hòa bình, nên có một bài Quốc ca mới để VN thể hiện với cộng đồng thế giới một tư duy tiến bộ, nhân bản. Cần thể hiện tinh thần yêu chuộng hòa bình của mình...
Đó là câu chuyện cách đây đúng 44 năm. VN vừa mới ra khỏi chiến tranh, lại đang còn tư duy bao cấp, lạc hậu...
Vậy mà bây giờ lại có một Chu Lai đi ngược lại tư duy nhân bản, yêu chuộng hòa bình, bộc lộ một thứ não bộ hiếu chiến, man rợ!
Giả sử như sự kiện lính VNCH thiêu sống bộ đội miền Bắc là có thật thì cũng nên bỏ qua, đừng đưa vào tác phẩm. Vì đó cũng là một con người VN.
Đưa cái tàn bạo đó cho cả thế giới biết chẳng khác nào tự mình bôi nhọ mình, bôi nhọ cả dân tộc mình! "Gà nhà bôi mặt đá nhau"! "Vạch áo cho người xem lưng"!!
Huống chi lại là dối trá, bịa đặt! Bịa đặt để tự vả vào mặt cả dân tộc mình! Bịa đặt một cách tận cùng vô-liêm-sỉ!!
Đấy là tôi nói về cái nhân cách khốn nạn, bẩn thỉu của Chu Lai.
Ngoài ra, nó còn là một thằng phản động nữa!
Ngày 26/3/2004, Bộ Chính trị Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành Nghị quyết 36-NQ/TW về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài.
Trong nghị quyết này có đoạn viết (tôi trích nguyên văn, các bạn đọc kỹ nhé):
"Thực hiện nhất quán CHÍNH SÁCH đại đoàn kết dân tộc; xóa bỏ mặc cảm, định kiến, quá khứ, khác biệt; tôn trọng những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh-thần-dân-tộc, TRUYỀN THỐNG NHÂN NGHĨA, KHOAN DUNG để tập hợp, đoàn kết người Việt Nam ở trong và ngoài nước cùng phấn đấu cho mục tiêu chung là xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh."
Rõ ràng, Chu Lai đã đi ngược lại đường lối, chính sách của Đảng!
Không phải đi ngược đường lối, chính sách bằng lời nói thật mà lại là bằng sự bịa đặt, dối trá, bằng thủ đoạn bẩn thỉu, đê hèn!
Như vậy, thằng súc vật đó không chỉ là phản động mà là cực-kỳ-phản-động!
Những cơ quan báo chí, truyền thông nào, những ông bà cán bộ nào tiếp tục khen tặng, ca ngợi Chu Lai và "Mưa đỏ" (cả truyện lẫn phim) cũng là đang đi ngược đường lối, chính sách của Đảng, cũng là bọn phản-động-đúng-nghĩa!
Đây là chân dung thằng tiểu nhân bỉ ổi, phản động.
Nó phải thực sự được coi là phản động để ĐẢNG ta không mang tiếng là "nói một đằng, làm một nẻo"...
-Tìm Chân Lý-
Đó là chuyện Nhà nước ta đã từng phát động trên toàn quốc một cuộc thi sáng tác... quốc ca mới!
Năm 1981, Chính phủ, lúc đó gọi là "Hội đồng Bộ trưởng" thống nhất với Ủy ban Thường vụ Quốc Hội thành lập một "Ban Vận động Sáng tác Quốc ca mới" và một Ban Giám khảo tuyển chọn các tác phẩm gửi về từ trên cả nước.
Lý do là thời điểm đó tuy vẫn còn tư duy bao cấp nhưng VN đã bắt đầu được "he hé mắt" nhìn ra thế giới.
Một số quan điểm tiến bộ trong nhân dân và hàng ngũ lãnh đạo đã nhìn thấy xu hướng hội nhập với thế giới văn minh...
Do đó, có nhiều ý kiến cho rằng bài "Tiến quân ca" tuy nhạc điệu rất hay, hoàn toàn xứng đáng là một bản Quốc ca nhưng phần lời thì không ổn. Tuy mang câu chữ mạnh mẽ của tinh thần cứu nước, nhưng lại có vẻ hung bạo, "đằng đằng sát khí":
"... Cờ in MÁU chiến thắng...", "... Đường vinh quang xây XÁC QUÂN THÙ... "
Cùng với đó, quốc kỳ của ta cũng một màu đỏ rực. Màu đỏ tuy là màu chiến thắng, màu của CM, nhưng cũng là màu của MÁU, màu của LỬA CHÁY...
Kết hợp quốc kỳ đó với bài "Tiến quân ca" dễ tạo cho những người yêu chuộng hòa bình cảm giác VN là một đất nước hiếu chiến, hiếu sát!
"... Cờ in MÁU chiến thắng...", "... Đường vinh quang xây XÁC QUÂN THÙ... "
Sau cuộc chiến khốc liệt với Trung Quốc xâm lược, lãnh đạo Đảng và NN ta vẫn xác định rõ ràng "kẻ thù của chúng ta là bè lũ cầm quyền Bắc Kinh bá quyền, bành trướng chứ không phải là nhân dân Trung Quốc".
Cũng như vậy, trong mọi cuộc chiến tranh, những người lính đối phương cũng chỉ là nạn nhân của tham vọng, mưu đồ từ bọn lãnh đạo...
Từ đó, thấy rõ lời hát của bài "Tiến quân ca" là không ổn. Nhưng xét về giá trị lịch sử, một tác phẩm văn hóa, nghệ thuật là một chỉnh thể thống nhất, không thể xóa bỏ hay sửa đổi một phần nào.
Vì vậy, khi bước sang thời kỳ hòa bình, nên có một bài Quốc ca mới để VN thể hiện với cộng đồng thế giới một tư duy tiến bộ, nhân bản. Cần thể hiện tinh thần yêu chuộng hòa bình của mình...
Đó là câu chuyện cách đây đúng 44 năm. VN vừa mới ra khỏi chiến tranh, lại đang còn tư duy bao cấp, lạc hậu...
Vậy mà bây giờ lại có một Chu Lai đi ngược lại tư duy nhân bản, yêu chuộng hòa bình, bộc lộ một thứ não bộ hiếu chiến, man rợ!
Giả sử như sự kiện lính VNCH thiêu sống bộ đội miền Bắc là có thật thì cũng nên bỏ qua, đừng đưa vào tác phẩm. Vì đó cũng là một con người VN.
Đưa cái tàn bạo đó cho cả thế giới biết chẳng khác nào tự mình bôi nhọ mình, bôi nhọ cả dân tộc mình! "Gà nhà bôi mặt đá nhau"! "Vạch áo cho người xem lưng"!!
Huống chi lại là dối trá, bịa đặt! Bịa đặt để tự vả vào mặt cả dân tộc mình! Bịa đặt một cách tận cùng vô-liêm-sỉ!!
Đấy là tôi nói về cái nhân cách khốn nạn, bẩn thỉu của Chu Lai.
Ngoài ra, nó còn là một thằng phản động nữa!
Ngày 26/3/2004, Bộ Chính trị Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành Nghị quyết 36-NQ/TW về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài.
Trong nghị quyết này có đoạn viết (tôi trích nguyên văn, các bạn đọc kỹ nhé):
"Thực hiện nhất quán CHÍNH SÁCH đại đoàn kết dân tộc; xóa bỏ mặc cảm, định kiến, quá khứ, khác biệt; tôn trọng những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh-thần-dân-tộc, TRUYỀN THỐNG NHÂN NGHĨA, KHOAN DUNG để tập hợp, đoàn kết người Việt Nam ở trong và ngoài nước cùng phấn đấu cho mục tiêu chung là xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh."
Rõ ràng, Chu Lai đã đi ngược lại đường lối, chính sách của Đảng!
Không phải đi ngược đường lối, chính sách bằng lời nói thật mà lại là bằng sự bịa đặt, dối trá, bằng thủ đoạn bẩn thỉu, đê hèn!
Như vậy, thằng súc vật đó không chỉ là phản động mà là cực-kỳ-phản-động!
Những cơ quan báo chí, truyền thông nào, những ông bà cán bộ nào tiếp tục khen tặng, ca ngợi Chu Lai và "Mưa đỏ" (cả truyện lẫn phim) cũng là đang đi ngược đường lối, chính sách của Đảng, cũng là bọn phản-động-đúng-nghĩa!
Đây là chân dung thằng tiểu nhân bỉ ổi, phản động.
Nó phải thực sự được coi là phản động để ĐẢNG ta không mang tiếng là "nói một đằng, làm một nẻo"...
-Tìm Chân Lý-
Saturday, September 20, 2025
Nhận Xét về Phim Mưa Đỏ - MX Lê Quang Liễn
Nhận Xét về Phim Mưa Đỏ
MX Lê Quang Liễn
Vào cuối tháng 8 năm nay (2025), nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam cho trình chiếu cuốn phim Mưa Đỏ, do Cục Điện Ảnh của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam thực hiện.
Cuốn phim Mưa Đỏ được dàn dựng công phu, nhằm tái hiện một giai đoạn bi thương trong lịch sử dân tộc, đặc biệt là trận chiến đẫm máu tại Cổ Thành Quảng Trị năm 1972. Tuy nhiên, do tính chất của sản phẩm mang màu sắc tuyên truyền, phục vụ mưu đồ chính trị, một số cảnh trong phim đã được hư cấu hoặc phóng đại quá nhiều so với thực tế.
Việc hư cấu trong phim, truyện là lẽ thường. Nhưng đó là với các tác phẩm giải trí, còn khi các tác phẩm mang tính cách lịch sử, thì sự thật phải được tôn trọng. Những bộ phim ngoại quốc về phòng hơi ngạt, lò thiêu của Đức Quốc Xã, về vụ thảm sát Nanking do quân Nhật gây ra hoàn toàn trung thực, vì nó dựa trên tài liệu là hàng ngàn tấm ảnh, thước phim ghi lại và có hàng vạn, hàng chục vạn người chứng kiến và kiểm chứng.
Từ khi phim Mưa Đỏ chiếu ra công chúng ở Việt Nam cho đến nay, đã tạo ra nhiều luồng dư luận trái ngược. Đa số những người ở miền Bắc, đặc biệt là giới trẻ sinh ra sau cuộc chiến (kể cả giới trẻ miền Nam), vì không hể theo dõi tài liệu trên sách báo ngoại quốc, thì tin rằng những tình tiết bi hùng của phim là sự thật. Còn những người miền Nam, đặc biệt những quân nhân từng tham chiến trải dài hơn hai mươi năm thì nhìn thấy rất rõ sự phóng đại, xuyên tạc ác ý của người làm phim.
Tôi là quân nhân thuộc binh chủng của Quân Lực Thủy Quân Lục Chiến VNCH, người được vinh dự có mặt trong cuộc chiến bảo vệ miền Nam vào mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972 trên chiến trường Quảng trị từ Tháng 3/1972 cho đến ngày kết thúc 15/9/1972. Với tư cách và danh dự của một người chính trực, tôi có thể nêu ra những điều tôi đã thấy và biết trong trận đánh Cổ Thành Quảng Trị.
1.- Về thời gian và địa điểm:
Trong phim "Mưa đỏ," các trận đánh đều diễn ra trong lòng Thành cổ từ những ngày đầu tiên.
Sự thật:
Ông Trịnh Hòa Bình, một cựu binh Bắc Việt, từng có mặt chiến đấu ở Cổ Thành Quảng Trị, nay là bác sĩ đã về hưu, xác nhận rằng nhà làm phim đã sai khi cho rằng các trận đánh diễn ra bên trong Cổ Thành. Theo ông,
Ông viết: "Điều đó sai cơ bản với lịch sử: từ diễn biến các trận đánh đến hiện trường tái hiện các đường hầm."
Ông chia sẻ: "Phần lớn thời gian của 81 ngày đêm là chiến đấu ở các khu vực, làng xã xung quanh Thành cổ, tức là bên ngoài thành. Thành cổ Quảng Trị là một khu hình vuông, phía sau là sông Thạch Hãn, 3 hướng còn lại là Bắc, Đông, Nam, là những chỗ giao tranh. Không đánh nhau ở trong Thành cổ, cho đến ngày thứ 81.
Cả thành cổ ấy, mỗi chiều hơn 500m, diện tích chừng 1/4 km² mà riêng quân ta đã tới 8 tiểu đoàn thì chỗ đâu mà nhét được. Và nếu chui hết vào đó thì chỉ cần một lượt B52 ném xuống là chết ráo! Nhiệm vụ của lực lượng bảo vệ Quảng Trị là phòng ngự không cho địch vào được Thành cổ. Nghĩa là đánh nhau ở xung quanh."
Sự thật như ông Bình nói, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến được lệnh thay thế Sư Đoàn Nhảy Dù từ ngày 27/7/1972 để tái chiếm Thị Xã và Cổ Thành Quảng Trị cho đến 15/9/1972. Từ ngày 10/9/1972, chúng tôi bắt đầu những cuộc thăm dò xâm nhập vào Cổ Thành và mờ sáng 13/9, các Tiểu Đoàn 3 và 6 Thủy Quân Lục Chiến đột nhập vào thành và thanh toán các đơn vị Cộng Sản Bắc Việt. Như thế, bên trong Cổ Thành chỉ có giao tranh từ 10/9 cho đến 14/9/1972.
Xin nói thêm chi tiết: Các cuộc giao chiến để chiếm từng ngôi nhà, khu vực trong Thị Xã Quảng Trị như Bệnh Viện, chợ, trường học là chính yếu. Trong Cổ Thành chỉ bị pháo kích. Chỉ có những ngày sau cùng, hai Tiểu Đoàn 3 và 6 Thủy Quân Lục Chiến đột nhập vào góc đông bắc và đông nam Cổ Thành để đánh đuổi các đơn vị Cộng Sản Bắc Việt, khi đó họ đã mất hết tinh thần, kiệt quệ vì đói.(chi tiết lính Bắc Việt xin ăn do Trung đội trưởng Vũ Duy Hiền thuộc Đại Đội 3/TĐ 3 cho biết)
2.- Đối xử với tù binh Bắc Việt:
Hư cấu sai sự thật: Trong phim Mưa Đỏ, có cảnh lính VNCH đốt sống tù binh.
Thực tế: Đơn vị của tôi là Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến đã đánh chiếm Bộ Chỉ huy quân miền Bắc tại Dinh Tỉnh Trưởng Quảng Trị sáng ngày 15/9/1972, bắt sống gần 20 tù binh quân miền Bắc. Chúng tôi đã nhường một phần thuốc men, băng bông, cả thức ăn để băng bó, chăm sóc vết thương và cho tù binh ăn uống. Đa số các tù binh còn rất trẻ chỉ trên dưới 20 tuổi, thân thể gầy ốm, sợ sệt, lo âu; có lẽ do bị nhồi sọ xuyên tạc về sự dã man của " ngụy quân"!?
Là những người miền Nam, được giáo dục tinh thần nhân đạo từ truyền thống cha ông để lại và các tư tưởng tiến bộ dân chủ Tây Phương, chúng tôi coi trọng sinh mạng và nhân phẩm của con người, dù đó là kẻ thù, hay tù binh bắt tại mặt trận. Là cấp chỉ huy trong TQLC, chúng tôi không bao giờ chấp nhận hoặc dung túng việc hành hạ những người đã buông súng vì trái với quân luật và luật pháp VNCH. Trên chiến trường khi giao tranh ác liệt thì phải cố giết nhau vì lẽ " bắn chậm thì chết" nhưng khi đối thủ đã đầu hàng thì được đối xử một cách nhân đạo. Việc ngược đãi tù binh hoàn toàn không phải là chủ trương của chính phủ hay quân đội miền Nam. Nhiều tù binh mà đơn vị tôi bắt được từ tuyến Mỹ Chánh cho đến dinh Tỉnh Trưởng thuộc các đơn vị như Trung Đoàn 66/SĐ304, Trung Đoàn 101/SĐ325, và các Trung Đoàn 48, Triệu Hải tại Dinh Tỉnh Trưởng Quảng Trị là những nhân chứng sống về cách đối xử nhân đạo của TQLC.
Chính ông Trịnh Hòa Bình cũng nhận xét rất khách quan, ông viết như sau:
"Dưới góc độ là phim lịch sử, tôi đánh giá Mưa đỏ chưa đạt yêu cầu. Đừng nói vì thời gian gấp gáp quá, bởi hạn mức thời gian là do chúng ta tạo ra. Đừng nói vì kinh phí hạn hẹp, bởi có những điều không phải do kinh phí. Cũng đừng nói 'Nữ đạo diễn làm được phim thế này là hay rồi'. Nói như vậy là bao biện và có hàm ý phân biệt giới tính"....
"Cảnh lính VNCH đốt tù binh là không đúng, họ không làm thế đâu. Qua đoạn này người xem có thể nghĩ lính VNCH rất dã man, hung bạo. Thực tế thì họ cũng là người Việt, sống nhân văn."
Nhận xét:
Những chi tiết trong phim Mưa Đỏ là hư cấu xuyên tạc cố tình, có chủ đích gây căm thù, khinh ghét đối với những người đã phục vụ chế độ VNCH. Hóa ra những lời nói rất văn vẻ đầy tính nhân đạo, hòa hợp hòa giải dân tộc của giới lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam rằng "đồng bào sống ở nước ngoài là những khúc ruột ngàn dặm" chỉ là đầu môi chót lưỡi, dối trá để mồi chài, lôi kéo những kẻ nhẹ dạ, chưa biết CS là thế nào !!
Đã năm mươi năm sau chiến tranh, lẽ ra phe thắng cuộc cần tỏ ra cho thế giới thấy họ đã có nếp văn minh, hiểu biết, để tích cực hàn gắn vết thương chung của dân tộc; thì họ vẫn còn ngoan cố, nuôi dưỡng hận thù đối với những người miền Nam mà họ đã tước đoạt hết tự do, tài sản, xô đẩy phải ly hương.
Người thắng trận viết lại lịch sử theo ý họ. Đúng! Nhưng đừng quên còn gần ba triệu người tại hải ngoại và hàng chục triệu người trong nước từng biết quá nhiều về những tội ác của Cộng Sản trong hai mươi năm chiến tranh. Đừng quên rằng sách báo, phim ảnh của miền Nam hiện vẫn được tìm lại để chứng minh tất cả sự thật mà phe Cộng Sản cố tình bóp méo, xuyên tạc. Có thể nói không sai, rằng phía Cộng Sản thường đổ lên đầu đối phương những tội ác mà chính họ từng thực hiện, điển hình như cảnh chôn sống hàng ngàn đồng bào Huế năm Mậu Thân 1968.
Việc phân biệt giữa các sự kiện lịch sử trung thực và các chi tiết hư cấu rất quan trọng vì nó sẽ góp phần xóa đi những định kiến độc hại trong nhận thức của những người ít am tường lịch sử. Bài này được viết ra nhằm cung cấp thông tin khách quan, giúp người đọc, đặc biệt là thế hệ trẻ, nhận thức đúng đắn về quá khứ, tránh những hiểu lầm hoặc những suy nghĩ sai lệch về con người và các lực lượng tham gia trận chiến.
Mục đích là vừa tôn trọng giá trị nghệ thuật của phim nếu có, vừa giữ gìn sự thật lịch sử, góp phần giáo dục thế hệ trẻ về tinh thần nhân đạo, lòng yêu nước, và trách nhiệm với lịch sử dân tộc.
MX Lê Quang Liễn
Vào cuối tháng 8 năm nay (2025), nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam cho trình chiếu cuốn phim Mưa Đỏ, do Cục Điện Ảnh của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam thực hiện.
Cuốn phim Mưa Đỏ được dàn dựng công phu, nhằm tái hiện một giai đoạn bi thương trong lịch sử dân tộc, đặc biệt là trận chiến đẫm máu tại Cổ Thành Quảng Trị năm 1972. Tuy nhiên, do tính chất của sản phẩm mang màu sắc tuyên truyền, phục vụ mưu đồ chính trị, một số cảnh trong phim đã được hư cấu hoặc phóng đại quá nhiều so với thực tế.
Việc hư cấu trong phim, truyện là lẽ thường. Nhưng đó là với các tác phẩm giải trí, còn khi các tác phẩm mang tính cách lịch sử, thì sự thật phải được tôn trọng. Những bộ phim ngoại quốc về phòng hơi ngạt, lò thiêu của Đức Quốc Xã, về vụ thảm sát Nanking do quân Nhật gây ra hoàn toàn trung thực, vì nó dựa trên tài liệu là hàng ngàn tấm ảnh, thước phim ghi lại và có hàng vạn, hàng chục vạn người chứng kiến và kiểm chứng.
Từ khi phim Mưa Đỏ chiếu ra công chúng ở Việt Nam cho đến nay, đã tạo ra nhiều luồng dư luận trái ngược. Đa số những người ở miền Bắc, đặc biệt là giới trẻ sinh ra sau cuộc chiến (kể cả giới trẻ miền Nam), vì không hể theo dõi tài liệu trên sách báo ngoại quốc, thì tin rằng những tình tiết bi hùng của phim là sự thật. Còn những người miền Nam, đặc biệt những quân nhân từng tham chiến trải dài hơn hai mươi năm thì nhìn thấy rất rõ sự phóng đại, xuyên tạc ác ý của người làm phim.
Tôi là quân nhân thuộc binh chủng của Quân Lực Thủy Quân Lục Chiến VNCH, người được vinh dự có mặt trong cuộc chiến bảo vệ miền Nam vào mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972 trên chiến trường Quảng trị từ Tháng 3/1972 cho đến ngày kết thúc 15/9/1972. Với tư cách và danh dự của một người chính trực, tôi có thể nêu ra những điều tôi đã thấy và biết trong trận đánh Cổ Thành Quảng Trị.
1.- Về thời gian và địa điểm:
Trong phim "Mưa đỏ," các trận đánh đều diễn ra trong lòng Thành cổ từ những ngày đầu tiên.
Sự thật:
Ông Trịnh Hòa Bình, một cựu binh Bắc Việt, từng có mặt chiến đấu ở Cổ Thành Quảng Trị, nay là bác sĩ đã về hưu, xác nhận rằng nhà làm phim đã sai khi cho rằng các trận đánh diễn ra bên trong Cổ Thành. Theo ông,
Ông viết: "Điều đó sai cơ bản với lịch sử: từ diễn biến các trận đánh đến hiện trường tái hiện các đường hầm."
Ông chia sẻ: "Phần lớn thời gian của 81 ngày đêm là chiến đấu ở các khu vực, làng xã xung quanh Thành cổ, tức là bên ngoài thành. Thành cổ Quảng Trị là một khu hình vuông, phía sau là sông Thạch Hãn, 3 hướng còn lại là Bắc, Đông, Nam, là những chỗ giao tranh. Không đánh nhau ở trong Thành cổ, cho đến ngày thứ 81.
Cả thành cổ ấy, mỗi chiều hơn 500m, diện tích chừng 1/4 km² mà riêng quân ta đã tới 8 tiểu đoàn thì chỗ đâu mà nhét được. Và nếu chui hết vào đó thì chỉ cần một lượt B52 ném xuống là chết ráo! Nhiệm vụ của lực lượng bảo vệ Quảng Trị là phòng ngự không cho địch vào được Thành cổ. Nghĩa là đánh nhau ở xung quanh."
Sự thật như ông Bình nói, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến được lệnh thay thế Sư Đoàn Nhảy Dù từ ngày 27/7/1972 để tái chiếm Thị Xã và Cổ Thành Quảng Trị cho đến 15/9/1972. Từ ngày 10/9/1972, chúng tôi bắt đầu những cuộc thăm dò xâm nhập vào Cổ Thành và mờ sáng 13/9, các Tiểu Đoàn 3 và 6 Thủy Quân Lục Chiến đột nhập vào thành và thanh toán các đơn vị Cộng Sản Bắc Việt. Như thế, bên trong Cổ Thành chỉ có giao tranh từ 10/9 cho đến 14/9/1972.
Xin nói thêm chi tiết: Các cuộc giao chiến để chiếm từng ngôi nhà, khu vực trong Thị Xã Quảng Trị như Bệnh Viện, chợ, trường học là chính yếu. Trong Cổ Thành chỉ bị pháo kích. Chỉ có những ngày sau cùng, hai Tiểu Đoàn 3 và 6 Thủy Quân Lục Chiến đột nhập vào góc đông bắc và đông nam Cổ Thành để đánh đuổi các đơn vị Cộng Sản Bắc Việt, khi đó họ đã mất hết tinh thần, kiệt quệ vì đói.(chi tiết lính Bắc Việt xin ăn do Trung đội trưởng Vũ Duy Hiền thuộc Đại Đội 3/TĐ 3 cho biết)
2.- Đối xử với tù binh Bắc Việt:
Hư cấu sai sự thật: Trong phim Mưa Đỏ, có cảnh lính VNCH đốt sống tù binh.
Thực tế: Đơn vị của tôi là Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến đã đánh chiếm Bộ Chỉ huy quân miền Bắc tại Dinh Tỉnh Trưởng Quảng Trị sáng ngày 15/9/1972, bắt sống gần 20 tù binh quân miền Bắc. Chúng tôi đã nhường một phần thuốc men, băng bông, cả thức ăn để băng bó, chăm sóc vết thương và cho tù binh ăn uống. Đa số các tù binh còn rất trẻ chỉ trên dưới 20 tuổi, thân thể gầy ốm, sợ sệt, lo âu; có lẽ do bị nhồi sọ xuyên tạc về sự dã man của " ngụy quân"!?
Là những người miền Nam, được giáo dục tinh thần nhân đạo từ truyền thống cha ông để lại và các tư tưởng tiến bộ dân chủ Tây Phương, chúng tôi coi trọng sinh mạng và nhân phẩm của con người, dù đó là kẻ thù, hay tù binh bắt tại mặt trận. Là cấp chỉ huy trong TQLC, chúng tôi không bao giờ chấp nhận hoặc dung túng việc hành hạ những người đã buông súng vì trái với quân luật và luật pháp VNCH. Trên chiến trường khi giao tranh ác liệt thì phải cố giết nhau vì lẽ " bắn chậm thì chết" nhưng khi đối thủ đã đầu hàng thì được đối xử một cách nhân đạo. Việc ngược đãi tù binh hoàn toàn không phải là chủ trương của chính phủ hay quân đội miền Nam. Nhiều tù binh mà đơn vị tôi bắt được từ tuyến Mỹ Chánh cho đến dinh Tỉnh Trưởng thuộc các đơn vị như Trung Đoàn 66/SĐ304, Trung Đoàn 101/SĐ325, và các Trung Đoàn 48, Triệu Hải tại Dinh Tỉnh Trưởng Quảng Trị là những nhân chứng sống về cách đối xử nhân đạo của TQLC.
Chính ông Trịnh Hòa Bình cũng nhận xét rất khách quan, ông viết như sau:
"Dưới góc độ là phim lịch sử, tôi đánh giá Mưa đỏ chưa đạt yêu cầu. Đừng nói vì thời gian gấp gáp quá, bởi hạn mức thời gian là do chúng ta tạo ra. Đừng nói vì kinh phí hạn hẹp, bởi có những điều không phải do kinh phí. Cũng đừng nói 'Nữ đạo diễn làm được phim thế này là hay rồi'. Nói như vậy là bao biện và có hàm ý phân biệt giới tính"....
"Cảnh lính VNCH đốt tù binh là không đúng, họ không làm thế đâu. Qua đoạn này người xem có thể nghĩ lính VNCH rất dã man, hung bạo. Thực tế thì họ cũng là người Việt, sống nhân văn."
Nhận xét:
Những chi tiết trong phim Mưa Đỏ là hư cấu xuyên tạc cố tình, có chủ đích gây căm thù, khinh ghét đối với những người đã phục vụ chế độ VNCH. Hóa ra những lời nói rất văn vẻ đầy tính nhân đạo, hòa hợp hòa giải dân tộc của giới lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam rằng "đồng bào sống ở nước ngoài là những khúc ruột ngàn dặm" chỉ là đầu môi chót lưỡi, dối trá để mồi chài, lôi kéo những kẻ nhẹ dạ, chưa biết CS là thế nào !!
Đã năm mươi năm sau chiến tranh, lẽ ra phe thắng cuộc cần tỏ ra cho thế giới thấy họ đã có nếp văn minh, hiểu biết, để tích cực hàn gắn vết thương chung của dân tộc; thì họ vẫn còn ngoan cố, nuôi dưỡng hận thù đối với những người miền Nam mà họ đã tước đoạt hết tự do, tài sản, xô đẩy phải ly hương.
Người thắng trận viết lại lịch sử theo ý họ. Đúng! Nhưng đừng quên còn gần ba triệu người tại hải ngoại và hàng chục triệu người trong nước từng biết quá nhiều về những tội ác của Cộng Sản trong hai mươi năm chiến tranh. Đừng quên rằng sách báo, phim ảnh của miền Nam hiện vẫn được tìm lại để chứng minh tất cả sự thật mà phe Cộng Sản cố tình bóp méo, xuyên tạc. Có thể nói không sai, rằng phía Cộng Sản thường đổ lên đầu đối phương những tội ác mà chính họ từng thực hiện, điển hình như cảnh chôn sống hàng ngàn đồng bào Huế năm Mậu Thân 1968.
Việc phân biệt giữa các sự kiện lịch sử trung thực và các chi tiết hư cấu rất quan trọng vì nó sẽ góp phần xóa đi những định kiến độc hại trong nhận thức của những người ít am tường lịch sử. Bài này được viết ra nhằm cung cấp thông tin khách quan, giúp người đọc, đặc biệt là thế hệ trẻ, nhận thức đúng đắn về quá khứ, tránh những hiểu lầm hoặc những suy nghĩ sai lệch về con người và các lực lượng tham gia trận chiến.
Mục đích là vừa tôn trọng giá trị nghệ thuật của phim nếu có, vừa giữ gìn sự thật lịch sử, góp phần giáo dục thế hệ trẻ về tinh thần nhân đạo, lòng yêu nước, và trách nhiệm với lịch sử dân tộc.
Wednesday, July 23, 2025
Fwd: Thư Viện Việt Nam Cộng Hòa: Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Nguyễn Gia Việt
Vị Tổng Thống tiên khởi của lịch sử Việt Nam
Tổng Thống Ngô Đình Diệm (1901–1963) có nhiều cái hay lắm!
Thí dụ đi công du thế giới với bộ áo dài khăn đóng làm chúng ta phải kính nể.
Vị Tổng Thống tràn trề lòng yêu nước, tự hào dân tộc Việt Nam, mang trong mình một sứ mạng của dân tộc.
Vị Tổng Thống luôn tự hào và gìn giữ hai chữ Việt Nam khi đi khắp năm châu đều với bộ quốc phục áo dài khăn đóng.
Việt Nam Cộng Hòa ngày xưa chỉ thiết lập quan hệ với Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan).
Thủ Tướng Trung Quốc Chu Ân Lai trong chuyến thăm Anh đã gặp ông đại sứ VNCH Ngô Đình Luyện ngỏ lời có ý muốn lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam Cộng Hoà, nhưng Tổng Thống Ngô Đình Diệm từ chối thẳng thừng sau đó.
Việt Nam Cộng Hòa thời TT Ngô Đình Diệm không thiết lập quan hệ với các nước cộng sản, không có quan hệ ngoại giao với chánh phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngô Đình Diệm là vị Tổng Thống tiên khởi của Việt Nam và sáng lập ra nền Việt Nam Cộng Hòa.
Sự thực lịch sử là vậy, không ai sửa sử đặng.
Nhiệm kỳ thứ nhứt của Tổng thống Ngô Đình Diệm bắt đầu từ ngày 26/10/1956 và chấm dứt vào ngày 30/4/1961.
Nhiệm kỳ thứ hai của TT Ngô Đình Diệm bị lật đổ bằng đảo chánh ngày 1/11/1963, và sáng ngày 2/11/1963 hai anh em TT Ngô Đình Diệm bị ám sát chết.
Tổng Thống Ngô Đình Diệm là người duy nhứt đọc diễn văn trước lưỡng viện Quốc Hội Huê Kỳ.
Tới ngày nay, của năm 2025 này, đố lãnh đạo Việt Nam nào có cơ hội đọc diễn văn trước lưỡng viện quốc hội Huê Kỳ?
Tổng Thống Ngô Đình Diệm là vị nguyên thủ bị sát hại dã man nhứt trong lịch sử Việt Nam.
Dầu chức nào, vị trị nào, có xiêu dạt vì thời cuộc hay không thì ông vẫn nức tiếng sống thẳng, thanh liêm, thẳng thướm.
Nếu yêu nước mà không làm gì thì sẽ mất nước, xung đột chánh trị phải giải quyết bằng mọi thứ. Muốn hết xung đột thì phải có quyền lực trong tay, muốn có quyền lực phải tranh đọat vì không ai cho không quyền lực hết.
Thực tế chánh trị không có thỏa thuận suông, ẩn trong đó là bạo lực.
Người say mê chánh trị là người không bỏ cuộc, nhứt định kiện trì dù mục đích có lúc rất mơ hồ.
Quốc huy của đệ nhứt Việt Nam Cộng Hoà là hình khóm trúc với cây bút lông và thanh kiếm.
Con dấu Tổng Thống VNCH cũng có khóm trúc.
Trúc trong tứ quân tử của nho sinh tượng trưng cho quân tử chính danh.
Hiệu kỳ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm là Tiết Trực Tâm Hư.
Tiết trực tâm hư là phẩm chất của nhà nho xưa.
Tiết là tiết tháo, tư cách.
Trực là thẳng thướm, không riêng tư, không thiện lệch.
Chữ tâm là tấm lòng, là trái tim, chữ tâm biểu thị cho tấm lòng của con người.
Sống có lòng bao dung, có sự độ lượng luôn biết nghĩ cho người khác.
Biết đặt mình vào hoàn cảnh của người khác để hiểu và hành xử cho đúng thì gọi là sống có Tâm.
Tâm còn cho thấy tính cách chu toàn, làm việc hành xử chu đáo gọi là làm việc có tâm.
Một người có giáo dục, có nhơn cách sẽ là người có tình yêu quê hương đất nước, sống liêm sĩ, luôn công tâm trong nhận thức.
Người đó phải luôn đặt vị trí bản thân mình như người dân.
Hư là trống trải, trống rỗng, hư không.
Xin đọc lại lời của cố TT Ngô Đình Diệm:
"...Tôi tin tưởng nơi mối đồng tâm mà đồng bào đã chứng tỏ trong những thời kỳ nghiêm trọng chúng ta đã vượt qua, tôi tin tưởng vào sức mạnh thiêng liêng của dân tộc nơi tinh anh, chí khí của giống nòi đã từng hấp thụ những nền văn minh cao quý nhất của nhân loại ..."
TT Ngô Đình Diệm làm đúng theo câu này.
Thời TT Ngô Đình Diệm thì kinh tế VNCH khá tốt, cuộc sống dân chúng cũng dễ thở. An ninh khá vững.
Làm chánh trị sống chết vơi lý tưởng là điều cần thiết.
Cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi.
Tổng Thống Ngô Đình Diệm là con người như vậy!
TT Ngô Đình Diệm nằm xuống ba tấc đất vun bồi cho miếng đất Miền Nam này.
Bài học này ai cũng thấy rõ, cũng hiểu rõ.
Vì hiểu rõ nên mới thương ông.
Cố TT Ngô Đình Diệm là một người hoạt động, là người của lịch sử.
Nguyễn Gia Việt
Saturday, May 17, 2025
Wednesday, May 07, 2025
HIỆN TƯỢNG “NGUYỄN THÙY TRANG” (BS Trần Văn Tích)
HIỆN TƯỢNG "NGUYỄN THÙY TRANG" (BS Trần Văn Tích )
April 12, 2020
Trên internet thỉnh thoảng thấy xuất hiện những bản tin do Thùy Trang hay Nguyễn Thùy Trang công bố. Tất cả các bản tin đó có chung một đặc tính : chúng là những bản tin độc đáo, dị thường. Khi chiếc máy bay Mã Lai Á mất tích, Thùy Trang khẳng định chiếc phi cơ đó đã hạ cánh an toàn ở một vùng bí mật trên lãnh thổ Hoa Lục vì dính dáng đến một điệp vụ tình báo.
Thùy Trang đưa tin viên tướng Việt cộng Phùng Quang Thanh và một số cận vệ bị bắn tử thương hay bị bắn trọng thương trên một con đường ở Paris.
Trong bài viết nhan đề Dương Văn Minh, một Việt cộng nằm vùng (…) Thùy Trang đưa ra những kiến giải hàm hồ, sai nhầm, thậm chí hỗn láo, xấc xược. Câu văn sau đây trích nguyên văn từ bài viết đó là một triệu chứng đặc trưng (signe pathognomonique) của bệnh án Thùy Trang: "Năm 1962 Dương Văn Minh đột nhập vào các cơ quan tình báo của Việt Nam Cộng Hoà, Binh vận Trung Ương Cục, Tình báo, An ninh T4 (Sài Gòn-Gia Định)".
Năm 1962, Ông Dương Văn Minh mang cấp bậc Trung tướng. Một vị trung tướng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà lại đi "đột nhập" vào các cơ quan tình báo của Việt Nam Cộng Hoà là nghĩa lý gì?
Thùy Trang liệt kê lung tung, loạn xạ, chẳng cần theo một trật tự, một phân loại, một phương hướng nào cả. Binh vận Trung ương Cục nếu có chỉ có thể là một cơ quan an ninh tình báo thuộc cấp lãnh đạo cao nhất, chung cho cả nước, của Việt Cộng, vậy mà Tướng Dương Văn Minh đã "đột nhập" được vào cơ quan này ư? Trong khi đó thì An ninh T4 (Sài Gòn-Gia Định) lại chỉ có thể là một tổ hay một nhóm an ninh tình báo địa phương cũng vẫn của Việt Cộng, một vị trung tướng Việt Nam Cộng Hoà làm sao lại nhè "đột nhập" vào đó và "đột nhập" vào đó để làm gì? Khoa chẩn đoán tâm thần gọi tình trạng bệnh lý này một cách hết sức tổng quát là dislogie, chứng loạn ngôn.
Trong vụ Vũng Áng, Thùy Trang sử dụng đầy đủ tên họ và cả học vị : "Nguyễn Thùy Trang, Tiến sĩ Sinh vật/Hoá học". Qua nội dung bài viết, Thùy Trang khơi khơi chủ trương Formosa không chế tạo thép mà tinh luyện titan. Hai chữ sinh vật trong Việt ngữ là một danh từ, một tên gọi chung các vật sống, bao gồm động vật, thực vật và vi sinh vật. Không có khoa học chuyên môn nào gọi là khoa sinh vật cả, mà chỉ có khoa sinh học hay khoa sinh vật học. Một vị tiến sĩ lại không thể gọi tên chuyên khoa mình tốt nghiệp cho đúng! Vẫn là triệu chứng bệnh lý tâm thần học loạn ngôn. Vả lại, khoa sinh học là tổng thể các khoa học về thế giới hữu sinh và về các quá trình của sự sống trong khi khoa hoá học chuyên nghiên cứu về cấu tạo, tính chất và sự biến hoá của các chất vô sinh; cho nên trong thực tế, không có cá nhân nào được đào tạo theo hai chuyên khoa đối nghịch như vậy.
Thoạt tiên, Tiến sĩ Thùy Trang – cũng có khi Thùy Trang tự xưng là bác sĩ – còn huê dạng cho biết rằng mẫu nước Vũng Áng đã được một phòng thí nghiệm ở Châu Âu phân tích nhưng không hề nghĩ đến chi tiết đơn giản nhất là nói rõ phòng thí nghiệm tên gì, ở tại thành phố nào, ở quốc gia nào thuộc Châu Âu! Nhưng rồi qua cơn khủng hoảng tâm thần, Thùy Trang phần nào tỉnh trí lại và nhận ra tính chất vô lý của cung cách loan tin nên Thùy Trang chủ động xoá chi tiết bảo rằng mẫu nước Vũng Áng đã được phân tích ở Châu Âu!
Khi cô Nancy Nguyen về Việt Nam và bị giặc bắt giữ, Thùy Trang đưa tin một cách ly kỳ là cô Nancy Nguyen đã bị Tổ Phản gián A, Đội Biệt động B giam cầm thẩm vấn. Vài ngày sau, cô Nancy Nguyen được tha và kể lại rằng Cô đã bị bắt mang về công an phường X rồi bị giam ở trại Y. Có thế thôi!
Mới đây nhất, Thùy Trang tung tin Hoa Kỳ và Trung Cộng lâm chiến tại Biển Đông, phi cơ hai nước bắn nhau loạn xà ngầu. Cựu Trung Tá Trần Đình Phúc tức Matthew Tran nêu câu hỏi trên mạng lưới với Thùy Trang đại khái là tin động trời như thế mà sao không thấy giới truyền thông báo chí quốc tế loan tin. Tiện dịp tôi bèn trả lời vị cựu trung tá. Tôi trình lên Trung Tá là tôi dự đoán Thùy Trang sẽ có hai cách phúc đáp. Cách thứ nhất là giữ im lặng, không thèm trả lời. Cách thứ hai là trả lời một cách rất "hoành tráng", đại khái như sau: Thùy Trang chỉ biết phục vụ Sự Thật, Thùy Trang không phải là nhà nghiên cứu sử hay phóng viên chiến trường. Trong vụ phi chiến Mỹ-Tàu ở Biển Đông, cả hai bên đều vì nhu cầu chiến lược toàn cầu mà giấu giếm rất kỹ lưỡng. Phía Hoa Kỳ thì Toà Bạch Ốc, Ngũ Giác Đài, Cơ quan Trung ương Tình báo CIA, v.v. đều quyết định không để lộ tin tức ra ngoài. Phía Trung Cộng từ bọn chóp bu cho đến bọn tép riu cũng hành động y như vậy. Cho nên báo chí, radio, v.v. làm sao mà biết được! Chỉ một mình Thùy Trang vì quyết tâm phát hiện và bảo vệ Chân Lý nên mới sử dụng những nguồn tin toàn cầu, liên quốc để theo dõi thời sự quốc nội và quốc ngoại. Những nguồn tin đặc biệt và độc đáo của Thùy Trang không ai có thể thu thập được hết. Đó là độc quyền của Thùy Trang. Không tin cứ chờ tương lai trả lời, khi các tài liệu bí mật quốc gia được giải mã thì sẽ thấy; vân vân và vân vân, bla bla bla…
* * *
Có người nghi ngờ Thùy Trang là điệp viên nhị trùng. Có người phỏng đoán Thùy Trang là tay sai ViXi chuyên tung tin hoả mù để làm hoang mang dư luận. Ngộ nghĩnh hơn nữa, có người hồn nhiên chuyển tiếp thêm, phổ biến rộng các tin tức theo kiểu Thùy Trang!
Thùy Trang không phải Việt Cộng. Thùy Trang là người gốc quốc gia. Thùy Trang có thể là sĩ quan hay hạ sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng Hoà đang sống lưu vong. Thùy Trang thuộc thế hệ thứ nhất, không có chuyên khoa nghề nghiệp vững chắc để hội nhập thuận lợi và thành công vào xã hội phương tây. Trình độ văn hoá của Thùy Trang ở mức suýt soát trung bình, có nhiều phần chắc dưới trung bình. Thùy Trang không có khả năng lý luận khoa học. Trước 1975, có lẽ Thùy Trang ít nhiều từng dính dáng đến các cơ quan an ninh tình báo của Miền Nam nhưng chỉ là nhân viên cấp thừa hành và nhất là không thuộc các cơ cấu chuyên nghiên cứu sách lược hay lập kế hoạch hành động.
Về hình thức, cung cách trình bày các bản tin của Thùy Trang, xét dưới khía cạnh tâm thần học, rất hữu ích cho giới y khoa. Chúng ta gặp nơi Thùy Trang nhiều triệu chứng, nhiều hợp chứng thác loạn ngôn ngữ (aphasie). Thùy Trang dùng những chữ vô nghĩa (Binh vận Trung ương Cục, Tiến sĩ Sinh vật/Hoá học). Thùy Trang bố trí từ hỗn loạn, bất chấp luận lý, bất tuân cú pháp, Thùy Trang xếp cạnh nhau những chữ không có liên quan ngữ nghĩa. Về nội dung, người bệnh Thùy Trang mang chứng hoang tưởng tự đại hay vĩ cuồng (mégalomanie). Chứng bệnh này rất phổ biến trong cộng đồng tỵ nạn và chỉ là một hậu quả gần như đương nhiên của hội chứng hậu chấn thương tâm thần, post traumatic syndrome. Bên cạnh Thùy Trang có thể kể rất nhiều ví dụ khác. Có người tự phong cho mình chức thủ tướng chính phủ Quốc gia Lâm thời. Có người tự xem mình là nhân vật lãnh đạo quần chúng. Có người mạo nhận là Phó Đề đốc Hải quân Hoa Kỳ đến tham gia một buổi sinh hoạt cộng đồng. Có vị cựu đại tá hiện ở Pháp khi nói chuyện với đồng bào tại Bad Kreuznach (Đức quốc) đã lớn tiếng tiên đoán quả quyết rằng Võ Nguyên Giáp sẽ lên ngôi nay mai (khi họ Võ còn sống). Có cả kẻ tự xưng là hậu duệ Việt Nam Cộng Hoà gọi điện thoại nói chuyện với người gõ những dòng này để quả quyết là ngày mai sẽ có biến chuyển ở Ba Đình, "Chú không tin thì rán chờ coi!" Ngay những người xuất thân từ lò xã hội chủ nghĩa cũng mắc cùng chứng bệnh. Có kẻ tự coi như mình ra nước ngoài là để làm minh chủ cho đám dân vong quốc. Có người tự giao cho mình trọng trách dạy dỗ lũ viết lách cách làm báo để kết hợp trong ngoài nước. Có bà đe dọa kiện Việt Cộng trước nền công lý nhân loại một cách "hoành tráng". Vân vân. Thật ra không thể kể xiết.
* * *
Bệnh án (Nguyễn) Thùy Trang chỉ là một bệnh án hàm thụ. Nó có rất nhiều hạn chế nhưng nó không luận ẩu nói càn như Thùy Trang. Nó có cơ sở khách quan khoa học.
Người thiết lập bệnh án không hề có ý nghĩ xúc phạm Thùy Trang; trái lại, kẻ gõ các dòng này rất kính trọng bệnh nhân Thùy Trang, như từng và vẫn kính trọng tất cả bệnh nhân mà mình đã có cơ may tiếp xúc, điều trị. Vả lại, người bệnh tâm thần Thùy Trang là một người bệnh rất dễ thương. Trong khoa tâm thần học vốn vẫn có những hạng bệnh nhân như vậy. Họ sống cho mình, với mình, vì mình. Họ không gây tai hại cho tha nhân. Họ không phải là một mối nguy cho xã hội. Họ chỉ đứng trên công luận, họ chỉ tách khỏi tập thể, họ chỉ không chấp lý lẽ.
Ai đọc Thùy Trang chỉ nên xem như đọc một mẩu tin vui, đừng bắt tội người gửi và đọc xong thì chỉ nên ngồi trước máy mà cười tủm tỉm một mình.
BS Trần Văn Tích
Friday, May 02, 2025
TRẦN HOÀI THƯ - Ngày người tù binh trở về
TRẦN HOÀI THƯ
Minh trở lại cùng Huế. Minh đứng ở bờ Hữu Ngạn, gọi Huế, gọi dòng sông, gọi những con sáo nội thành in cánh đen trên những nhành phượng vĩ. Dòng sông vẫn hiền lành, nước vẫn xanh lơ, chảy về Kim Long, qua cầu Bạch Hổ, chảy ngược về Vĩ Dạ, khuất dưới những bờ tre xanh. Huế ơi. Giọt nước mưa mùa đông, hay là giọt nước mắt. Minh về, nhìn lại bóng mình xao động trên mặt nước. Bên kia bờ là Đông Ba, là thành phố, là vỉa hè Trần Hưng Đạo, Phan Bội Châu, là dấu chân chập chùng một thời tuổi trẻ. Mới đó, bây giờ đã mười bốn năm. Bao nhiêu điều mà anh đã thêu dệt về một quê nhà, trước khi cầm tờ giấy phóng thích, giờ đây trở thành tan vỡ. Hình như Huế đã không còn là của anh nữa. Huế đã thay đổi quá nhanh. Huế hấp tấp, hối hả, tranh dành như đám xe xích lô hay xe đạp thồ đang đón khách đi. Huế ảm đạm, câm nín như cả bầu trời xám, và những người cúi đầu xuống lầm lũi. Huế với những ngôi nhà mới cất như những dinh thự tương phản cùng nỗi nghèo nàn cơ cực.
Anh đã ôm bị hành trang, bước đi. Đây là con đường Lê Lợi cũ, sẽ qua chiếc cầu ga, qua trường Bình Minh, qua đại học luật khoa, qua trường Quốc Học, Đồng Khánh…Không, đâu còn cái tên Đồng Khánh nữa. Mà là Trưng Trắc. Trời ơi, mười bốn năm. Nhắm mắt lại, nhớ gì, anh thử nhìn xem bên trong ngôi trường cũ. Cổng trường được quét vôi lại, những dãy lầu vẫn màu ngói đỏ, vươn lên trong bốn bờ tường sạm rêu. Tự nhiên anh nhớ đến giáo sư Thịnh. Thầy Thịnh. Thầy không biết là hơi thở của thầy có lần do tôi định đoạt. Thầy không hiểu thầy còn sống sót cho đến ngày hôm nay là từ một tích tắc khơi động của lương tâm, và của tình thầy trò. Để cuối cùng, thầy có cơ hội trở thành một kẻ chiến thắng cao ngạo như bây giờ.
Mười bốn năm. Thời gian quá lâu cho một cấp bậc đại úy. Tại sao anh lại không nằm trong huyệt đất nào lấp vùi như những người xấu số khác. Anh đã chấp nhận mà. Anh chẳng muốn làm anh hùng, cũng chẳng muốn làm một tên tuẫn đạo. Nhưng anh muốn đứng thẳng. Một khi con người đã chấp nhận một định phần oan nghiệt, hắn không còn gì để còn bận tâm lo lắng nữa. Bất quá là đem hắn ra phÁp trường. Anh không vượt ngục, không phạm nội qui. Anh chỉ có một tội là không-nhận-tội mà phe thắng trận đã gán cho anh. Thế thôi. Và cứ thế, từ đêm này qua đêm khác, dưới bóng cây đèn bão, cả tổ làm kiểm điểm, phê bình. Phải ăn năn hối cải để mau về đoàn tụ với gia đình. Ăn năn. Anh làm gì để mà ăn năn. Ngay cả một người như ông Thịnh, nổi tiếng trong biến cố năm Mậu Thân mà anh còn tha mạng, thì làm sao anh lại hối cải được. Anh em tù chịu thua. Cán bộ hằn hộc, dọa nạt, răng nghiến kèn kẹt. Anh vẫn còn ngoan cố. Tội của anh, trời không dung, đất không tha. Anh trả lời, cán bộ bắt tôi khai những điều tôi không làm, làm sao tôi lại khai được. Chúng tôi chưa bao giờ bắt một con gà, con heo, chưa bao giờ hãm hiếp, mổ mật, mổ tim cách mạng… Ra trận, nếu chúng tôi không bắn cách mạng thì cách mạng bắn chúng tôi…Đó là luật chiến tranh…Anh đã nói như vậy, trong khi các anh em tù cùng tổ nhìn anh, như thể nói quaánh mắt. Minh, mày dại mày biết không? Không những mày làm mày khổ mà cả anh em phải khổ vì mày. Mày dại. Ai cũng cùng chung một bản án treo sẵn, đâu phải riêng mày. Dù là lính văn phòng hay là lính đánh giặc…Dù là y sĩ tiền tuyến hay là y sĩ hậu cứ… Tất cả cặp mắt nhìn chăm chăm vào anh để chờ anh nhận tội. Nhưng lần nào cũng thế, những giờ kiểm điểm dài dằng dặc, với quản giáo ngồi chồm hỗm phía trên, và đám tù viên ngồi đến độ muốn còng xương sống ở phía dưới, thì anh lại phủ nhận tội trạng đã gán cho anh. Quản giáo lại một phen lạnh lùng, tiếp tục nói: Anh Minh vẫn còn chưa thấm nhuần chính sách của cách mạng, chứng tỏ anh vẫn chưa học tập tốt. Anh cần được sự giúp đỡ của anh em. Và hắn nhường lại lời cho tổ trưởng. Cả tổ lại tiếp tục chờ đợi anh "ăn năn hối cải".
Ăn năn. Anh muốn lợm mửa khi nghe những người bên cạnh mỗi ngày phải sáng tác thêm tộiác của họ. Số người bị giết nhiều hơn. Số gà vịt bị bắt nhiều hơn. Số nhà cửa bị đốt nhiều hơn. Trời ơi, anh không thể tin lại có một tay nguyên là phi công L19 thú tội là hắn đã giết trên hai trăm ngàn quân cách mạng, khiến cả phòng phải bàng hoàng sững sờ…Hắn chiết tính chi tiết từng lần hướng dẫn pháo binh hay phản lực oanh tạc. Một con nai ngờ nghệch hay bởi vì hắn muốn chứng tỏ hắn đã thm nhuần chính sách của cách mạng, để sớm được cách mạng khoan hồng. Lòng anh như bị cứa ra từng khúc. Thương hại hắn hay là ghê tởm hắn. Anh cũng không biết nữa. Đôi khi, vì một miếng mồi nhử, con người quên hết liêm sỉ làm ăng ten, hay còng lưng dạ dạ xưng em với quản giáo…
Cuối cùng cai tù cũng phải nản, quản giáo cũng phải chịu thua. Cuối cùng, cửa trại cũng phải mở. Sau mười bốn năm. Cái giá quá đắt. À, cuối cùng, các ông tha tôi. Vâng, nếu các ông tha, thì tôi ra. Thì tôi trở lại nhà. Lòng anh bây giờ đã quá nguội lạnh. Mười bốn năm đủ để dạy một con người học được bài học.
oOo
Anh trình diện phường công an, xin được về quê ngoại tại ngoại ô Huế. Nhưng gã công an, dường như đã được báo cáo về con người của anh, nên dứt khoát:
– Trong lý lịch, anh khai có vợ con. Anh phải về ở với vợ con, để làm tròn trách nhiệm làm chồng làm cha…
– Nhưng vợ tôi đã bỏ tôi từ lâu?
– Đó là chuyện của gia đình anh. Chúng tôi phải làm đúng theo qui định.
Anh biết là anh sắp bước chân vào một nhà tù mới nữa. Họ sẽ bắt anh chứng kiến sự thật của một người thua cuộc. Họ sẽ làm anh phải cuồng trí. Nhà của anh. Nhưng bây giờ đã không còn là nhà của anh nữa. Vợ của anh nhưng cũng không còn là vợ của anh nữa. Con đĩ. Anh về để nhìn nó. Trời ơi… Làm sao anh có thể ngờ một ngày anh phải đối diện với một con đĩ, một con vợ lăng loàn, mà bất lực như thế này.
Mưa xứ Huế. Mưa ơi, mưa nhòa cả mặt mũi, tóc tai của anh. Mưa giăng đầy sông. Mưa khóc hay lòng anh khóc.
oOo
May mà anh còn có đứa con gái của anh. Nhờ nó mà anh có thể cắn răng nuốt khối căm hờn tủi nhục. Ngày anh vào tù, nó mới biết bò và ngày anh ra tù, nó mười lăm tuổi. Nó đã ôm anh mà khóc, thương cảm cha, oán thù mẹ. Nó rưng rưng nước mắt nhìn chỗ trú ngụ của cha nó ngoài hè. Nó đau đớn nhìn cha nó ngồi ở đấy, lầm lì, đốt từ điếu thuốc này sang điếu thuốc khÁc. Nó thầm thì cùng cha: "Mong ba can đảm mà sống. Thế nào ba con mình cũng thoát khỏi nơi này…Con nghe tin về chương trình HO "
Phải. Tin tức về chương trình HO đã làm xôn xao những người cựu tù không ít. Phường xả đã ra thông cáo. Càng ở tù lâu càng được Mỹ bốc đi sớm. Có thật vậy không? Anh vẫn còn nghi ngờ. Anh muốn tự mình quyết định lấy đời mình. Đã bị lừa gạt một lần, anh không thể bị lừa gạt thêm một lần nữa.
oOo
Một ngày con anh mang tin về một chuyến vượt biên. Một người bạn cũ vì cảm thương hoàn cảnh anh nên cho cha con anh hai chỗ trong tàu. Hai cha con cùng nhau ra vườn. Con anh huyên thuyên như chim sáo. Lần đầu tiên, anh thấy nó vui. Mắt nó long lanh, và đôi má hồng vì phải đạp xe một khoảng đường xa. Nó hỏi anh về Mỹ, về tuyết, về những chiếc áo đỏ thắm có nơ dài xuống chân. Nó lại cầm tay anh: "Kể từ hôm ni, ba con mình nhớ cầu nguyện Trời Phật cho mọi sự bình yên nghe ba ". "Vâng. Ba nghe lời con. Ba tin Trời Phật không bao giờ bỏ cha con mình đâu."
oOo
Chuyến đi không ngờ lại êm xuôi ngoài điều dự tính. Người chủ tàu đã biết đút lót các trạm công an dọc tuyến ra cửa. Chiếc ghe dài 15 thước đâm mũi ra khơi, như một chiếc lá côi cút. Nhưng tiếng máy không thể át nổi tiếng đập của từng con tim. Cầu cho biển lặn sóng êm. Cầu cho chuyến đi không gặp những tàu tuần duyên CS. Cầu cho máy tàu, chân vịt, xăng dầu, mọi sự đều êm thắm. Đằng sau, phía quê nhà, mặt trời hừng đỏ. Càng lúc dấu hiệu của đất liền càng khuất dần. Trời vẫn còn bốc đầy sương. Minh ngồi bên con gái. Nó lạnh run. Bàn tay nó nắm chặc bàn tay anh. Anh cũng siết chặc tay con như chuyền lại sức mạnh vào tấm thân yếu đuối. Tàu cứ chạy. Máy cứ nổ rì rầm. Lâu lắm. Hình như cả một ngày. Rồi một tiếng nói trên boong vọng xuống lòng khoang: "Đến hải phận quốc tế rồi bà con ơi". Cả lòng khoang tự dưng bật òa lên những tiếng la gào cuồng nhiệt. "Tự do rồi bà con ơi. Tự do rồi."
Anh nắm lấy tay con, nói khẽ: "Mình cùng cảm tạ Trời Phật đi con. Mình thoát địa ngục rồi. Ra hải phận quốc tế, không ai có quyền bắt mình đâu."
oOo
Đến ngày thứ hai, những trận gió khác thường thổi đến. Chỉ trong thoảng chốc cả một bầu trời về chiều trở nên đen kịt. Rồi những tia chớp cứ tiếp tục loé sáng kèm sau đó là những tràng sấm ì ầm nổi dậy. Ánh chớp như mở màn cho một trò chơi trên biển. Từ Đông sang Tây. Từ Nam qua Bắc. Rồi mưa ào xuống. Rồi gió vần vũ. Rồi cả một mặt biển xôn xao chuyển động. Sóng đẩy ghe lên cao. Thân ghe chạm sóng cựa mình đau răng rắc. Tiếng la thất thanh dưới khoang. Nước tràn vào ghe! Con gái anh bưng mặt, mếu máo: "Có sao không ba. Con sợ quá".
Anh bỏ con, nhập vào những người thanh niên tát nước. Trong khi đó, nước cứ ào vào, không biết từ đâu. Từ trên boong đổ vào hay từ những đường nức do những cơn sóng bổ vào thành ghe quá mạnh. Một cặp vợ chồng trẻ đã dành hai thùng can ôm vào lòng. Cả gia đình chủ tàu quỳ trên boong cầu nguyện. Những bộ quần áo được đem ra thấm dầu đốt tiếp. Tấm vải trắng được viết bằng chử sơn đỏ S.O.S được căng lên bị cuốn thốc bởi những cơn gió mạnh. Vài con tàu sắt khổng lồ thấy hiện từ xa nhưng càng lúc càng mất dần. Chiếc ghe lại chồm lên và hụt xuống giữa lòng biển tối như một con vật điên khùng say rượu. Chỉ nghe tiếng kinh cầu, và át bởi tiếng sóng cuồng nộ. Trong sự tuyệt vọng ấy, chỉ có mỗi một mình anh là đứng thẳng. Như ngày nào anh đứng thẳng trên chiến trường. Cổ họng anh khan, anh gào, thét, thúc dục đám thanh niên. Và họ tát cuồng điên.
Và cũng nhờ vậy, chiếc ghe mới bình yên sau nửa giờ vật lộn cùng cơn bão biển.
oOo
Đến ngày thứ ba, tàu bị hải tặc tấn công. Những tên hải tặc trơ tấm lưng nhầy nhụa mồ hôi bóng lưởng. Chúng nhảy rầm rập trên boong. Chúng vung những lưỡi dao, mả tấu. Chúng tru gào. Chúng lỏa lồ man rợ. Chúng cầm những trái lựu đạn như sẳn sàng rút chốt. Và cả con thuyền nín thinh thít nhìn chúng hả hê ăn thịt uống mÁu…Thanh niên bó tay. Người lớn cúi đầu nhẫn nhục… Và một tên đã nhào tới đứa con gái của Minh. Minh kéo con về phía sau. Và anh đứng chắn ngang cản đường lũ quỉ. Rõ ràng có một tiếng gọi bắt một người cha phải vùng dậy hành động để bảo vệ con mình. Anh thét như nổ tung cả phổi. Anh nhào tới, bất ngờ, dùng hai bàn tay chụp lấy cổ họng thằng cướp. Thằng cướp bị ngả nhào, nằm gục xuống, và mắt trợn trừng. Rồi anh chụp lấy cái chai xì dầu, đập bể đít, dí vào mặt nó. Nhưng một đứa khác đã đâm trúng anh, trúng ngay chỗ huyệt. Anh gục ngay xuống khoang tàu.
Anh gục ngay trước mắt đứa con gái của anh. Anh gục ngay trước những người bất lực vì sợ hãi.
Đại uý Minh đã chết ngay trên bờ đất của sự sống.
Amen.
Wednesday, April 30, 2025
Bong Lau - DIỄN BINH Ở WASHINGTON DC
> DIỄN BINH Ở WASHINGTON DC
> Hoa kỳ là một quốc gia gởi quân tham chiến khắp nơi nhiều nhứt trên thế giới đến nổi bị phong cho danh hiệu không mấy đẹp là "sen đầm quốc tế". Tuy nhiên người dân Mỹ không mấy thích cảnh xe tăng máy bay lính tráng đi rầm rập ở thủ đô vì đó là hình ảnh chiến tranh mà họ không mấy thích cho lắm.
> Lần cuối có diễn binh ở thủ đô Washington DC là cách đây 34 năm. Vào năm 1991 khi liên quân do Hoa Kỳ lãnh đạo với chiến dịch "Bão Sa mạc", đã giải phóng Kuwait khỏi sự xâm lược của nhà độc tài Saddam Hussein. Và trước đó nữa là cuộc diễn binh cách đây 80 năm sau khi Thế Chiến Thứ 2 kết thúc vào năm 1945.
> Cuộc nội chiến Bắc Nam ở Hoa Kỳ 1861-1865 có khoảng 700 ngàn binh sỹ 2 bên tử trận. Miền Bắc đã thắng miền Nam mặc dù binh sỹ miền Nam phần đông là nông dân rất thiện chiến. Nhưng tuyệt nhiên không có diễn binh chào mừng chiến thắng và nhờ đó Hoa Kỳ đã mau chóng hàn gắn vết thương chiến tranh để đoàn kết thành một và xây dựng nên một quốc gia phú cường ngày hôm nay.
> Trong đoàn quân diễn hành trong đoạn phim này cũng tương tự như các cuộc diễn hành trong các quân trường. Binh sỹ Mỹ từ tốn bước đi nhịp nhàng đánh tay vừa phải và súng đeo nơi vai một cách thoải mái, không quá hung hăng trong tư thế chĩa súng tấn công. Họ là những chiến binh dày dạn chiến trường nên không cần thiết phải khoe khoang răn đe quần chúng đang ở một hậu phương thanh bình.
> Cũng trong đoạn phim này có quay cảnh một số người biểu tình chống chiến tranh. Xã hội Mỹ tự do và mọi người có quyền bày tỏ quan điểm. Chỉ khi một số người biểu tình leo lên xe tăng M2 Bradley Fighting Vehicle thì mới được cảnh sát mời xuống.
> Chi phí cuộc diễn binh "Bão Sa mạc" năm 1991 là 12 triệu đô la. Tiền thuế của dân đóng là 7 triệu. Phần còn lại 5 triệu đô là do các công ty tư nhân và cá nhân đóng góp.
> Hoa kỳ là một quốc gia gởi quân tham chiến khắp nơi nhiều nhứt trên thế giới đến nổi bị phong cho danh hiệu không mấy đẹp là "sen đầm quốc tế". Tuy nhiên người dân Mỹ không mấy thích cảnh xe tăng máy bay lính tráng đi rầm rập ở thủ đô vì đó là hình ảnh chiến tranh mà họ không mấy thích cho lắm.
> Lần cuối có diễn binh ở thủ đô Washington DC là cách đây 34 năm. Vào năm 1991 khi liên quân do Hoa Kỳ lãnh đạo với chiến dịch "Bão Sa mạc", đã giải phóng Kuwait khỏi sự xâm lược của nhà độc tài Saddam Hussein. Và trước đó nữa là cuộc diễn binh cách đây 80 năm sau khi Thế Chiến Thứ 2 kết thúc vào năm 1945.
> Cuộc nội chiến Bắc Nam ở Hoa Kỳ 1861-1865 có khoảng 700 ngàn binh sỹ 2 bên tử trận. Miền Bắc đã thắng miền Nam mặc dù binh sỹ miền Nam phần đông là nông dân rất thiện chiến. Nhưng tuyệt nhiên không có diễn binh chào mừng chiến thắng và nhờ đó Hoa Kỳ đã mau chóng hàn gắn vết thương chiến tranh để đoàn kết thành một và xây dựng nên một quốc gia phú cường ngày hôm nay.
> Trong đoàn quân diễn hành trong đoạn phim này cũng tương tự như các cuộc diễn hành trong các quân trường. Binh sỹ Mỹ từ tốn bước đi nhịp nhàng đánh tay vừa phải và súng đeo nơi vai một cách thoải mái, không quá hung hăng trong tư thế chĩa súng tấn công. Họ là những chiến binh dày dạn chiến trường nên không cần thiết phải khoe khoang răn đe quần chúng đang ở một hậu phương thanh bình.
> Cũng trong đoạn phim này có quay cảnh một số người biểu tình chống chiến tranh. Xã hội Mỹ tự do và mọi người có quyền bày tỏ quan điểm. Chỉ khi một số người biểu tình leo lên xe tăng M2 Bradley Fighting Vehicle thì mới được cảnh sát mời xuống.
> Chi phí cuộc diễn binh "Bão Sa mạc" năm 1991 là 12 triệu đô la. Tiền thuế của dân đóng là 7 triệu. Phần còn lại 5 triệu đô là do các công ty tư nhân và cá nhân đóng góp.
Tuesday, April 15, 2025
TRẦN HOÀI THƯ - NGÀY TÀN CỦA MỘT ÔNG TƯỚNG
Tác giả: TRẦN HOÀI THƯ
Ông nói gái Hà nội đẹp tự nhiên bởi vì mỗi ngày họ đều ăn một quả trứng ngỗng, còn gái Sài Gòn vì thiếu ăn đói rách nên da mặt xanh xao, phải ngụy trang bằng đánh phấn má hồng. Bài nói chuyện của ông khiến sinh viên, công nhân viên miền Nam phải nín thở, phải hít hà. Thì ra thiên đàng đâu cần tìm ở đâu xa, mà ngay tại Hà Nội này. Họ vỗ tay. Họ hoan hô cách mạng. Ít ra, cách mạng phải mang những điều tốt đẹp hơn trước, nếu không, thì cách mạng cái quái gì. Họ làm sao biết khi ông nói về những điều này lòng ông cảm thấy bất an. Ông phải chứng tỏ ông là một đứa con trung kiên của Đảng, để đám cán bộ xung quanh không thể có chứng cớ nào để buộc tội được ông. Ông cũng đã viết thư qua Mỹ, dạy hai đứa em của ông, phải sống như người lương thiện. Thằng em nhận thư, đọc xong, nổi giận viết thư trả lời: Anh ở trong hàng ngũ bất lương mà lại dạy tôi phải sống như người lương thiện.
Buổi trưa nóng như lò lửa. Ngồi trong nhà, ông Ba Thi có thể nhận ra những những tàn cây bông sứ im lìm không lay động, con đường bên ngoài hàng rào như chảy nhựa, và những mảng nắng lay động trên chiếc hồ nuôi cá đặt trong vườn đến nhức mắt. Mặc dù chiếc quạt máy đã mở tối đa, nhưng hơi nóng như theo gió táp vào da thịt ông. Tự nhiên, ông nhớ lại hơi mát lạnh tỏa ra từ chiếc máy điều hòa không khí chạy suốt đêm ngày trong văn phòng ông đã làm việc suốt gần hai năm, kể từ sau khi bộ đội ông tiếp thu thị xã. Ông nhớ đến chiếc bàn làm việc bằng gỗ láng bóng, khung cửa kính có treo màn, và căn phòng phía sau cánh cửa, với chiếc giường nệm êm ả để ông tìm đến khi cần một chỗ đặt lưng. Ông nhớ đến nỗi êm ái thật dịu dàng khi ông ngồi trên chiếc ghế nệm, trước mặt là điện thoại, và lá cờ quân đội nhân dân, trên vách treo tấm hình của Bác, thêm những tấm hình chụp chung với anh Văn, người mà ông xem như người anh đỡ đầu của ông trong suốt quãng đời binh nghiệp. Ông nhớ đến những người lính phục vụ, buổi sáng không quên mang vào bình trà, và buổi trưa mùa hè, không quên mang vào những chai bia ngoại, cùng chiếc cốc đầy nước đá…Họ bước vào khúm núm, rời phòng khúm núm. Có khi họ biết ý ông, lại mang vào gói thuốc ngoại như Camel, Craven A, hoặc 555. Không biết họ lấy ở đâu loại thuốc quí hiếm như thế này. Mặc kệ. Ông không bao giờ thắc mắc. Ông chỉ biết tận hưởng, như cả Đảng ông, từ trung ương xuống hạ tầng đang điên cuồng tận hưởng. Mà tại sao lại không. Những biệt thự nguy nga sang trọng mà Mỹ ngụy để lại, với bao nhiêu đồ đạc tiện nghi, những ngôi nhà vắng mà chủ của chúng đã bỏ chạy ra nước ngoài, những chiếc xe bóng loáng, những tủ lạnh, máy truyền hình, những thảm, bàn ghế, máy may…ê hề, dư dật, no nê, sẵn sàng chờ tiếp thu….Không chụp thì dại. Ông biết điều ấy, nhưng ông không thể nhanh tay hơn đám trung ương ngoài Bắc. Họ đã đánh hơi trước ông. Họ đã chặn đầu ông bằng cách cho người mau mắn vào Nam kiểm kê vơ vét tất cả để chở mang ra Bắc. Ông đã bó tay. May mà ông giành được một ngôi nhà bên con phố chính của thành phố. Nếu không, giờ này ông đâu còn được ngồi trong căn phòng với điện nước xài thả dàn, quạt máy quạt tối đa, tủ lạnh cũng chạy suốt cả đêm lẫn ngày để sản xuất những bịch đá cục mà ông bám vào để sống trong lúc: Đầu đường đại tá vá xe. Cuối đường thiếu tá bán chè đậu đen… như số phận của hầu hết những anh hùng Điện Biên bị về vườn khác…
Ông nhớ lại những ngày tháng đầu tiên sau giải phóng. Ông đã trở lại thành phố nơi ông đã ra đời, và đã trải qua những năm tuổi thơ đến tuổi trưởng thành. Ông trở về, bộ quân hàm tướng trên cổ áo, ngồi xe díp Mỹ, có lính hầu, lính phục vụ, và cả một đại đơn vị dưới quyền. Ông trở về như một người hùng. Ông đã ngồi lại chỗ ngồi của viên tướng ngụy tự sát, nhìn lại cái bản đồ còn sót lại trước khi Mỹ cút ngụy nhào, để cám ơn Bác, Đảng, cám ơn đại tướng đã tiến cử ông,… Rõ ràng ông đã sống như cơn mơ. Ông bấy giờ chẳng khác bậc lãnh chúa.. Ông còn hơn cả những người đảng viên tập kết khác. Như lão Sáu Bồng, giữ chức viện trưởng Viện Đại Học, lão Tám Minh, giữ chức Bí Thư Tỉnh ủy. Ông nắm quyền số một của ủy ban Quân Quản, là người muốn tha ai là tha, và bắt ai là bắt. Ông thi hành nghiêm chỉnh chính sách của Đảng, lùa sĩ quan ngụy vào rọ, đập tư sản mại bản, đổi tiền, đốt hủy văn hoá đế quốc, truy kích tàn dư. Họ gọi ông là anh Ba, tâng bốc ông lên tận mây xanh. Họ đọc tên ông đầu tiên trong các bài diễn văn, trong các buổi họp…Ông ngồi ở hàng ghế danh dự, ban huấn thị. Họ xem ông là một tấm gương cho một người lính công bộc trung với Đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
Nhưng ông có nỗi lo buồn không ai có thể hiểu nổi. Cả gia đình ông, trừ ông, đều là đại phản động. Một thằng em của ông nguyên là trung tá, hiện đang nằm trong trại cải tạo. Và hai đứa em khác đã chạy qua Mỹ vào tháng 4 năm 1975. Tàn tích Mỹ ngụy rõ ràng quá sâu đậm trong dòng họ ông mà những người thèm chức vụ của ông thì quá nhiều và những kẻ ganh tị với ông thì cũng không ít. Bọn họ đang chờ chực cơ hội để giành lấy chức vụ béo bở… Bởi vậy, ông càng chứng tỏ là một người không có dính líu gì đến cái huyết thống giai cấp đầy nợ máu. Mặc mẹ ông đã từng khóc lóc khi nói về thằng em đang cơ cực trong trại cải tạo… Hãy để cách mạng giáo dục dạy dỗ nó nên người. Ông luôn luôn nói với bà như thế. Nó đã phạm quá nhiều tội ác đối với nhân dân. Mặc bà luôn luôn kể về những năm huy hoàng cũ, chưa bao giờ bà biết cơm độn khoai độn sắn, với những bữa cơm lúc nào cũng thịt, cá ê hề. Ông nghe bà than thở, chỉ biết nói: "Đất nước mình còn nghèo, mới thoát ra từ chiến tranh, má à. Không bao lâu, Nhật bò ta chạy, nhà nhà đều có tủ lạnh, có đài." Ông đã lặp lại những lời của tổng bí thư Lê Duẩn, để động viên bà. Nhưng ông đã bị bà mỉa mai bằng một câu quá đau: "Chờ đến ngày ấy, người dân đói quá làm sao mà chạy được hả con ?".
Khi ban huấn thị hay nói về những đề tài liên quan đến chính trị, ông thao thao bất tuyệt, ca ngợi chế độ, ca ngợi Bác, Đảng lên tận mây xanh. Ông say sưa kể về một thủ đô Hà Nội không có một cô gái điếm, nhân dân được tự do đến nỗi chuông nhà thờ Hà Nội còn đổ sớm hơn chuông nhà thờ Rô Ma. Ông không quên nói về người con gái Hà Nội xinh đẹp, má khỏi cần đánh phấn hồng như cô gái miền Nam. Ông nói gái Hà nội đẹp tự nhiên bởi vì mỗi ngày họ đều ăn một quả trứng ngỗng, còn gái Sài Gòn vì thiếu ăn đói rách nên da mặt xanh xao, phải ngụy trang bằng đánh phấn má hồng. Bài nói chuyện của ông khiến sinh viên, công nhân viên miền Nam phải nín thở, phải hít hà. Thì ra thiên đàng đâu cần tìm ở đâu xa, mà ngay tại Hà Nội này. Họ vỗ tay. Họ hoan hô cách mạng. Ít ra, cách mạng phải mang những điều tốt đẹp hơn trước, nếu không, thì cách mạng cái quái gì. Họ làm sao biết khi ông nói về những điều này lòng ông cảm thấy bất an. Ông phải chứng tỏ ông là một đứa con trung kiên của Đảng, để đám cán bộ xung quanh không thể có chứng cớ nào để buộc tội được ông. Ông cũng đã viết thư qua Mỹ, dạy hai đứa em của ông, phải sống như người lương thiện. Thằng em nhận thư, đọc xong, nổi giận viết thư trả lời: Anh ở trong hàng ngũ bất lương mà lại dạy tôi phải sống như người lương thiện. Rồi đến cả lời chúc Tết của nó trên đài Hoa Kỳ nhân danh một nhân sĩ hải ngoại đúng vào nửa đêm giao thừa. Nó mạt sát chế độ. Nó lại còn hẹn một ngày về trong vinh quang… Đúng là thằng ngoan cố phản động. Trời ơi, ông rủa thầm. Giữa lúc cuộc đời của ông lên như diều gặp gió thì tiếng nói của nó trên đài nước ngoài như một cái điềm tai ách. Tay chân ông rụng rời. Vợ ông, người đàn bà mà ông cưới ngoài Bắc, thì đau khổ không ít. Bà linh cảm được cái tương lai u ám trước mặt. Sẽ không còn cái mộng làm một bà tướng của quân đội nhân dân. Sẽ hết cái mộng tậu thêm một căn nhà có vườn ăn trái, có cả một cây đàn dương cầm cho con gái hay cho con cái bà qua Mỹ du học như đám con của các cán bộ cao cấp khác…
Và cái ngày ấy đã đến. Trước hết, vai trò của Đại tướng bị hạ bệ từ chức tổng trưởng quốc phòng xuống chức ngồi chơi xơi nước. Dù sao người anh nuôi của ông vẫn còn được may mắn. Còn ông và đám bạn bè cùng lứa thì từng người một ôm khăn gói về vườn. Mà vườn thì chẳng có để mà an hưởng tuổi già. Thôi thì cả bọn chỉ biết tụ họp tại câu lạc bộ kháng chiến để ngồi lại mà nhớ thời dĩ vãng vàng son. Nhưng cuối cùng Đảng cũng không chịu buông tha. Câu lạc bộ cũng bị đóng cửa dẹp tiệm nốt.
Nhục. Hèn. Ông nhắm mắt nhìn tuổi già trôi qua hiu hắt. Đời của một ông tướng cuối cùng như vậy sao?
oOo
-Ông Ba, còn nước đá cục không ông Ba !
Giọng của thằng bé hàng xóm như hét ngoài cổng, khiến ông phải bỏ dở giòng ý tưởng đang tuôn trào trên ngòi viết. Ông tháo cặp kính lão bỏ xuống bàn viết rồi mở tủ lạnh nhìn vào. Còn khoảng ba bịch đá. Ông mở cửa, nói vọng ra:
– Còn, mua mấy bịch ?
– Dạ, mười bịch, ông Ba.
Ông nhìn thằng nhỏ. Nó là một khách hàng quen thuộc với ông. Nó lại hỏi, giọng có vẻ xấc xược:
– Tôi kêu mấy lần mà ông không nghe. Bộ ông ngủ hở?
– Ừ thì tao ngủ.
Ông trả lời, lòng tê tái. Ông hỏi thằng bé:
– Hôm nay nhà mày có khách hay đình đám mà mày mua nhiều thế?
– Dạ, có khách Việt kiều. Cô Năm của tôi, thêm con trai của cổ. Ảnh là bác sĩ.
– Từ Mỹ về ?
– Dạ. Cô về mang nhiều quà. Cổ cho tôi chiếc quần cao bồi…
– Nhà cô Năm chắc gần đây?
– Cổ là con ông Tám Lợi.
– Tao biết rồi.
– Ông vào nhà lấy nước đá đi ông. Kẽo người ta chờ…Tiệc lớn lắm ông Ba.
– Tao biết…
Ông nói.. Phải ông đã biết. Biết thế nào là một sự phũ phàng của lịch sử. Ông đã trả cái giá quá đắt cho cả đời của ông, tuổi trẻ của ông, hoài bão của ông, và lý tưởng của ông nữa.
– Ông biết cô Năm của tôi không?
– Không. Nhưng tao biết ông Tám Lợi.
Thằng bé nhận lấy ba bịch nước đá rồi vụt chạy. Ông trở vào nhà, ngồi lại trước bàn. Bản thảo về bộ quân sử mà đại tướng nhờ ông viết nằm trước mặt. Đó là niềm vui trong những ngày còn lại của ông, và của đại tướng. Đó là bát tro tàn của quá khứ làm của tự hào. Nhưng hôm nay ông cảm thấy bất an. Danh dự của ông đã bị tổn thương. Ngay một đứa con nít vẫn còn sai ông chạy. Nó đâu cần biết quá khứ của ông. Nó chỉ biết cô nó, một Việt kiều trở về để nó có quyền hãnh diện cùng bạn bè, hàng xóm, và cả ông nữa.
oOo
Buổi chiều, ông Ba Thi đạp xe đạp trở về nhà mẹ ông. Ông cần lấy vài cuốn sách trong tủ sách gia đình của thằng em ở Mỹ để lại. Vừa bước vào nhà, bà Năm, mẹ của ông đã nói:
– Con Năm con của chú Tám Lợi ở Mỹ về, mới ghé nhà. Nó có mang ít quà của thằng Sáu gởi về má.
– Bộ con Năm có quen biết thằng Sáu?
– Nó nói gặp thằng Sáu hoài.
Rồi bà lại khóc tấm tức.
– Dù sao em con vẫn còn biết thương má. Tuy ở xa, nó vẫn còn biết má ho mà gởi về hộp thuốc ho…
Bà không nói hết, nhưng ông Ba biết là bà đang gián tiếp trách ông.
Ông nói với bà:
– Má có thể nói giùm cho con được gặp cô Năm được không?
– Để má sẽ nói cho. Gia đình mình và gia đình chú Tám Lợi thân thiết từ xưa nay. Ngày xưa ba con và chú Tám vẫn hay đánh tứ sắc chung…
– Con nhớ.
oOo
Buổi tối ông Ba đạp xe đến nhà chú Tám. Ông nhớ lại căn nhà mà thời tuổi trẻ, trước khi ông ra Hà Nội học, ông vẫn thường ghé qua. Ông cũng có thể nhớ lại đứa con gái mà ngày xưa vẫn hay rụt rè, với đôi mắt to đen như hai hòn bi. Bây giờ cô bé ấy đã trở thành quá lạ. Cô ta không rụt rè như trước nữa, mà trái lại đã nói huyên thuyên khi ông mới bước vô nhà:
– Anh Hai, anh còn nhớ em không. Em là Thương đây.
Cô líu lo nói, mừng rỡ như thể gặp lại một người thân xa cách từ lâu:
– Em nhớ có lần anh Hai đến nhà học bài chung với anh Hai Minh của em… Má em sai em nấu nước pha cà phê cho hai anh uống…
Lòng ông Ba Thi ấm lại. Ông ngậm ngùi nói, lòng dâng lên xúc động:
– Anh nhớ. Anh nhớ hết em Năm. Anh làm sao quên được. Anh cũng nhớ đến bên kia đường, tên mật thám Tây bị bọn anh bắn nằm trước cổng nhà.
– Bộ anh bắn sao?
– Anh ở trong toán công tác nội thành mà.
– Sao ngày ấy em thấy anh hiền khô không à.
Ông Ba cười. Rồi ông hỏi tiếp:
– Em có thường liên lạc với thằng Sáu em của anh không?
– Dạ, thỉnh thoảng anh Ba.
– Gia đình nó thế nào ?
– Dạ thưa khá lắm. Con cái ảnh đều thành tài hết.
– Năm à. Cho anh tâm sự với em điều này.
Ông ngưng lại, như lấy can đảm. Mắt ông đỏ, ngấn lệ:
– Anh vẫn nhớ ngày nó còn nhỏ anh vẫn hay cõng nó đi chơi. Chiều chiều, anh hay dẫn nó ra bờ sông, anh em cùng tắm lội…Có lần anh tập nó chạy xe đạp, anh phải chạy theo nó kẻo sợ nó té. Tại sao nó vẫn không hiểu anh.
Giọng của ông trở nên tha thiết hơn:
– Anh mong em nếu trở lại Mỹ gặp nó thì nói lại là anh lúc nào cũng thương cũng nhớ nó. Nói với nó anh bây giờ anh khổ lắm. Anh cần nó gởi cho anh một ít quà hay thuốc men. Anh bây giờ là một ông tướng bán nước đá…Nhục lắm. Nhục lắm…
Đôi vai ông bật run lên và giọng nói của nghẹn trong cổ họng. Chừng như ông đã mất hết bình tĩnh. Cái bình tĩnh cố hữu của một ông tướng ngoài mặt trận.
TRẦN HOÀI THƯ
Ông nói gái Hà nội đẹp tự nhiên bởi vì mỗi ngày họ đều ăn một quả trứng ngỗng, còn gái Sài Gòn vì thiếu ăn đói rách nên da mặt xanh xao, phải ngụy trang bằng đánh phấn má hồng. Bài nói chuyện của ông khiến sinh viên, công nhân viên miền Nam phải nín thở, phải hít hà. Thì ra thiên đàng đâu cần tìm ở đâu xa, mà ngay tại Hà Nội này. Họ vỗ tay. Họ hoan hô cách mạng. Ít ra, cách mạng phải mang những điều tốt đẹp hơn trước, nếu không, thì cách mạng cái quái gì. Họ làm sao biết khi ông nói về những điều này lòng ông cảm thấy bất an. Ông phải chứng tỏ ông là một đứa con trung kiên của Đảng, để đám cán bộ xung quanh không thể có chứng cớ nào để buộc tội được ông. Ông cũng đã viết thư qua Mỹ, dạy hai đứa em của ông, phải sống như người lương thiện. Thằng em nhận thư, đọc xong, nổi giận viết thư trả lời: Anh ở trong hàng ngũ bất lương mà lại dạy tôi phải sống như người lương thiện.
Buổi trưa nóng như lò lửa. Ngồi trong nhà, ông Ba Thi có thể nhận ra những những tàn cây bông sứ im lìm không lay động, con đường bên ngoài hàng rào như chảy nhựa, và những mảng nắng lay động trên chiếc hồ nuôi cá đặt trong vườn đến nhức mắt. Mặc dù chiếc quạt máy đã mở tối đa, nhưng hơi nóng như theo gió táp vào da thịt ông. Tự nhiên, ông nhớ lại hơi mát lạnh tỏa ra từ chiếc máy điều hòa không khí chạy suốt đêm ngày trong văn phòng ông đã làm việc suốt gần hai năm, kể từ sau khi bộ đội ông tiếp thu thị xã. Ông nhớ đến chiếc bàn làm việc bằng gỗ láng bóng, khung cửa kính có treo màn, và căn phòng phía sau cánh cửa, với chiếc giường nệm êm ả để ông tìm đến khi cần một chỗ đặt lưng. Ông nhớ đến nỗi êm ái thật dịu dàng khi ông ngồi trên chiếc ghế nệm, trước mặt là điện thoại, và lá cờ quân đội nhân dân, trên vách treo tấm hình của Bác, thêm những tấm hình chụp chung với anh Văn, người mà ông xem như người anh đỡ đầu của ông trong suốt quãng đời binh nghiệp. Ông nhớ đến những người lính phục vụ, buổi sáng không quên mang vào bình trà, và buổi trưa mùa hè, không quên mang vào những chai bia ngoại, cùng chiếc cốc đầy nước đá…Họ bước vào khúm núm, rời phòng khúm núm. Có khi họ biết ý ông, lại mang vào gói thuốc ngoại như Camel, Craven A, hoặc 555. Không biết họ lấy ở đâu loại thuốc quí hiếm như thế này. Mặc kệ. Ông không bao giờ thắc mắc. Ông chỉ biết tận hưởng, như cả Đảng ông, từ trung ương xuống hạ tầng đang điên cuồng tận hưởng. Mà tại sao lại không. Những biệt thự nguy nga sang trọng mà Mỹ ngụy để lại, với bao nhiêu đồ đạc tiện nghi, những ngôi nhà vắng mà chủ của chúng đã bỏ chạy ra nước ngoài, những chiếc xe bóng loáng, những tủ lạnh, máy truyền hình, những thảm, bàn ghế, máy may…ê hề, dư dật, no nê, sẵn sàng chờ tiếp thu….Không chụp thì dại. Ông biết điều ấy, nhưng ông không thể nhanh tay hơn đám trung ương ngoài Bắc. Họ đã đánh hơi trước ông. Họ đã chặn đầu ông bằng cách cho người mau mắn vào Nam kiểm kê vơ vét tất cả để chở mang ra Bắc. Ông đã bó tay. May mà ông giành được một ngôi nhà bên con phố chính của thành phố. Nếu không, giờ này ông đâu còn được ngồi trong căn phòng với điện nước xài thả dàn, quạt máy quạt tối đa, tủ lạnh cũng chạy suốt cả đêm lẫn ngày để sản xuất những bịch đá cục mà ông bám vào để sống trong lúc: Đầu đường đại tá vá xe. Cuối đường thiếu tá bán chè đậu đen… như số phận của hầu hết những anh hùng Điện Biên bị về vườn khác…
Ông nhớ lại những ngày tháng đầu tiên sau giải phóng. Ông đã trở lại thành phố nơi ông đã ra đời, và đã trải qua những năm tuổi thơ đến tuổi trưởng thành. Ông trở về, bộ quân hàm tướng trên cổ áo, ngồi xe díp Mỹ, có lính hầu, lính phục vụ, và cả một đại đơn vị dưới quyền. Ông trở về như một người hùng. Ông đã ngồi lại chỗ ngồi của viên tướng ngụy tự sát, nhìn lại cái bản đồ còn sót lại trước khi Mỹ cút ngụy nhào, để cám ơn Bác, Đảng, cám ơn đại tướng đã tiến cử ông,… Rõ ràng ông đã sống như cơn mơ. Ông bấy giờ chẳng khác bậc lãnh chúa.. Ông còn hơn cả những người đảng viên tập kết khác. Như lão Sáu Bồng, giữ chức viện trưởng Viện Đại Học, lão Tám Minh, giữ chức Bí Thư Tỉnh ủy. Ông nắm quyền số một của ủy ban Quân Quản, là người muốn tha ai là tha, và bắt ai là bắt. Ông thi hành nghiêm chỉnh chính sách của Đảng, lùa sĩ quan ngụy vào rọ, đập tư sản mại bản, đổi tiền, đốt hủy văn hoá đế quốc, truy kích tàn dư. Họ gọi ông là anh Ba, tâng bốc ông lên tận mây xanh. Họ đọc tên ông đầu tiên trong các bài diễn văn, trong các buổi họp…Ông ngồi ở hàng ghế danh dự, ban huấn thị. Họ xem ông là một tấm gương cho một người lính công bộc trung với Đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
Nhưng ông có nỗi lo buồn không ai có thể hiểu nổi. Cả gia đình ông, trừ ông, đều là đại phản động. Một thằng em của ông nguyên là trung tá, hiện đang nằm trong trại cải tạo. Và hai đứa em khác đã chạy qua Mỹ vào tháng 4 năm 1975. Tàn tích Mỹ ngụy rõ ràng quá sâu đậm trong dòng họ ông mà những người thèm chức vụ của ông thì quá nhiều và những kẻ ganh tị với ông thì cũng không ít. Bọn họ đang chờ chực cơ hội để giành lấy chức vụ béo bở… Bởi vậy, ông càng chứng tỏ là một người không có dính líu gì đến cái huyết thống giai cấp đầy nợ máu. Mặc mẹ ông đã từng khóc lóc khi nói về thằng em đang cơ cực trong trại cải tạo… Hãy để cách mạng giáo dục dạy dỗ nó nên người. Ông luôn luôn nói với bà như thế. Nó đã phạm quá nhiều tội ác đối với nhân dân. Mặc bà luôn luôn kể về những năm huy hoàng cũ, chưa bao giờ bà biết cơm độn khoai độn sắn, với những bữa cơm lúc nào cũng thịt, cá ê hề. Ông nghe bà than thở, chỉ biết nói: "Đất nước mình còn nghèo, mới thoát ra từ chiến tranh, má à. Không bao lâu, Nhật bò ta chạy, nhà nhà đều có tủ lạnh, có đài." Ông đã lặp lại những lời của tổng bí thư Lê Duẩn, để động viên bà. Nhưng ông đã bị bà mỉa mai bằng một câu quá đau: "Chờ đến ngày ấy, người dân đói quá làm sao mà chạy được hả con ?".
Khi ban huấn thị hay nói về những đề tài liên quan đến chính trị, ông thao thao bất tuyệt, ca ngợi chế độ, ca ngợi Bác, Đảng lên tận mây xanh. Ông say sưa kể về một thủ đô Hà Nội không có một cô gái điếm, nhân dân được tự do đến nỗi chuông nhà thờ Hà Nội còn đổ sớm hơn chuông nhà thờ Rô Ma. Ông không quên nói về người con gái Hà Nội xinh đẹp, má khỏi cần đánh phấn hồng như cô gái miền Nam. Ông nói gái Hà nội đẹp tự nhiên bởi vì mỗi ngày họ đều ăn một quả trứng ngỗng, còn gái Sài Gòn vì thiếu ăn đói rách nên da mặt xanh xao, phải ngụy trang bằng đánh phấn má hồng. Bài nói chuyện của ông khiến sinh viên, công nhân viên miền Nam phải nín thở, phải hít hà. Thì ra thiên đàng đâu cần tìm ở đâu xa, mà ngay tại Hà Nội này. Họ vỗ tay. Họ hoan hô cách mạng. Ít ra, cách mạng phải mang những điều tốt đẹp hơn trước, nếu không, thì cách mạng cái quái gì. Họ làm sao biết khi ông nói về những điều này lòng ông cảm thấy bất an. Ông phải chứng tỏ ông là một đứa con trung kiên của Đảng, để đám cán bộ xung quanh không thể có chứng cớ nào để buộc tội được ông. Ông cũng đã viết thư qua Mỹ, dạy hai đứa em của ông, phải sống như người lương thiện. Thằng em nhận thư, đọc xong, nổi giận viết thư trả lời: Anh ở trong hàng ngũ bất lương mà lại dạy tôi phải sống như người lương thiện. Rồi đến cả lời chúc Tết của nó trên đài Hoa Kỳ nhân danh một nhân sĩ hải ngoại đúng vào nửa đêm giao thừa. Nó mạt sát chế độ. Nó lại còn hẹn một ngày về trong vinh quang… Đúng là thằng ngoan cố phản động. Trời ơi, ông rủa thầm. Giữa lúc cuộc đời của ông lên như diều gặp gió thì tiếng nói của nó trên đài nước ngoài như một cái điềm tai ách. Tay chân ông rụng rời. Vợ ông, người đàn bà mà ông cưới ngoài Bắc, thì đau khổ không ít. Bà linh cảm được cái tương lai u ám trước mặt. Sẽ không còn cái mộng làm một bà tướng của quân đội nhân dân. Sẽ hết cái mộng tậu thêm một căn nhà có vườn ăn trái, có cả một cây đàn dương cầm cho con gái hay cho con cái bà qua Mỹ du học như đám con của các cán bộ cao cấp khác…
Và cái ngày ấy đã đến. Trước hết, vai trò của Đại tướng bị hạ bệ từ chức tổng trưởng quốc phòng xuống chức ngồi chơi xơi nước. Dù sao người anh nuôi của ông vẫn còn được may mắn. Còn ông và đám bạn bè cùng lứa thì từng người một ôm khăn gói về vườn. Mà vườn thì chẳng có để mà an hưởng tuổi già. Thôi thì cả bọn chỉ biết tụ họp tại câu lạc bộ kháng chiến để ngồi lại mà nhớ thời dĩ vãng vàng son. Nhưng cuối cùng Đảng cũng không chịu buông tha. Câu lạc bộ cũng bị đóng cửa dẹp tiệm nốt.
Nhục. Hèn. Ông nhắm mắt nhìn tuổi già trôi qua hiu hắt. Đời của một ông tướng cuối cùng như vậy sao?
oOo
-Ông Ba, còn nước đá cục không ông Ba !
Giọng của thằng bé hàng xóm như hét ngoài cổng, khiến ông phải bỏ dở giòng ý tưởng đang tuôn trào trên ngòi viết. Ông tháo cặp kính lão bỏ xuống bàn viết rồi mở tủ lạnh nhìn vào. Còn khoảng ba bịch đá. Ông mở cửa, nói vọng ra:
– Còn, mua mấy bịch ?
– Dạ, mười bịch, ông Ba.
Ông nhìn thằng nhỏ. Nó là một khách hàng quen thuộc với ông. Nó lại hỏi, giọng có vẻ xấc xược:
– Tôi kêu mấy lần mà ông không nghe. Bộ ông ngủ hở?
– Ừ thì tao ngủ.
Ông trả lời, lòng tê tái. Ông hỏi thằng bé:
– Hôm nay nhà mày có khách hay đình đám mà mày mua nhiều thế?
– Dạ, có khách Việt kiều. Cô Năm của tôi, thêm con trai của cổ. Ảnh là bác sĩ.
– Từ Mỹ về ?
– Dạ. Cô về mang nhiều quà. Cổ cho tôi chiếc quần cao bồi…
– Nhà cô Năm chắc gần đây?
– Cổ là con ông Tám Lợi.
– Tao biết rồi.
– Ông vào nhà lấy nước đá đi ông. Kẽo người ta chờ…Tiệc lớn lắm ông Ba.
– Tao biết…
Ông nói.. Phải ông đã biết. Biết thế nào là một sự phũ phàng của lịch sử. Ông đã trả cái giá quá đắt cho cả đời của ông, tuổi trẻ của ông, hoài bão của ông, và lý tưởng của ông nữa.
– Ông biết cô Năm của tôi không?
– Không. Nhưng tao biết ông Tám Lợi.
Thằng bé nhận lấy ba bịch nước đá rồi vụt chạy. Ông trở vào nhà, ngồi lại trước bàn. Bản thảo về bộ quân sử mà đại tướng nhờ ông viết nằm trước mặt. Đó là niềm vui trong những ngày còn lại của ông, và của đại tướng. Đó là bát tro tàn của quá khứ làm của tự hào. Nhưng hôm nay ông cảm thấy bất an. Danh dự của ông đã bị tổn thương. Ngay một đứa con nít vẫn còn sai ông chạy. Nó đâu cần biết quá khứ của ông. Nó chỉ biết cô nó, một Việt kiều trở về để nó có quyền hãnh diện cùng bạn bè, hàng xóm, và cả ông nữa.
oOo
Buổi chiều, ông Ba Thi đạp xe đạp trở về nhà mẹ ông. Ông cần lấy vài cuốn sách trong tủ sách gia đình của thằng em ở Mỹ để lại. Vừa bước vào nhà, bà Năm, mẹ của ông đã nói:
– Con Năm con của chú Tám Lợi ở Mỹ về, mới ghé nhà. Nó có mang ít quà của thằng Sáu gởi về má.
– Bộ con Năm có quen biết thằng Sáu?
– Nó nói gặp thằng Sáu hoài.
Rồi bà lại khóc tấm tức.
– Dù sao em con vẫn còn biết thương má. Tuy ở xa, nó vẫn còn biết má ho mà gởi về hộp thuốc ho…
Bà không nói hết, nhưng ông Ba biết là bà đang gián tiếp trách ông.
Ông nói với bà:
– Má có thể nói giùm cho con được gặp cô Năm được không?
– Để má sẽ nói cho. Gia đình mình và gia đình chú Tám Lợi thân thiết từ xưa nay. Ngày xưa ba con và chú Tám vẫn hay đánh tứ sắc chung…
– Con nhớ.
oOo
Buổi tối ông Ba đạp xe đến nhà chú Tám. Ông nhớ lại căn nhà mà thời tuổi trẻ, trước khi ông ra Hà Nội học, ông vẫn thường ghé qua. Ông cũng có thể nhớ lại đứa con gái mà ngày xưa vẫn hay rụt rè, với đôi mắt to đen như hai hòn bi. Bây giờ cô bé ấy đã trở thành quá lạ. Cô ta không rụt rè như trước nữa, mà trái lại đã nói huyên thuyên khi ông mới bước vô nhà:
– Anh Hai, anh còn nhớ em không. Em là Thương đây.
Cô líu lo nói, mừng rỡ như thể gặp lại một người thân xa cách từ lâu:
– Em nhớ có lần anh Hai đến nhà học bài chung với anh Hai Minh của em… Má em sai em nấu nước pha cà phê cho hai anh uống…
Lòng ông Ba Thi ấm lại. Ông ngậm ngùi nói, lòng dâng lên xúc động:
– Anh nhớ. Anh nhớ hết em Năm. Anh làm sao quên được. Anh cũng nhớ đến bên kia đường, tên mật thám Tây bị bọn anh bắn nằm trước cổng nhà.
– Bộ anh bắn sao?
– Anh ở trong toán công tác nội thành mà.
– Sao ngày ấy em thấy anh hiền khô không à.
Ông Ba cười. Rồi ông hỏi tiếp:
– Em có thường liên lạc với thằng Sáu em của anh không?
– Dạ, thỉnh thoảng anh Ba.
– Gia đình nó thế nào ?
– Dạ thưa khá lắm. Con cái ảnh đều thành tài hết.
– Năm à. Cho anh tâm sự với em điều này.
Ông ngưng lại, như lấy can đảm. Mắt ông đỏ, ngấn lệ:
– Anh vẫn nhớ ngày nó còn nhỏ anh vẫn hay cõng nó đi chơi. Chiều chiều, anh hay dẫn nó ra bờ sông, anh em cùng tắm lội…Có lần anh tập nó chạy xe đạp, anh phải chạy theo nó kẻo sợ nó té. Tại sao nó vẫn không hiểu anh.
Giọng của ông trở nên tha thiết hơn:
– Anh mong em nếu trở lại Mỹ gặp nó thì nói lại là anh lúc nào cũng thương cũng nhớ nó. Nói với nó anh bây giờ anh khổ lắm. Anh cần nó gởi cho anh một ít quà hay thuốc men. Anh bây giờ là một ông tướng bán nước đá…Nhục lắm. Nhục lắm…
Đôi vai ông bật run lên và giọng nói của nghẹn trong cổ họng. Chừng như ông đã mất hết bình tĩnh. Cái bình tĩnh cố hữu của một ông tướng ngoài mặt trận.
TRẦN HOÀI THƯ
Subscribe to:
Comments (Atom)