"Thi bá Việt Nam" Vũ Hoàng Chương có tên trong danh sách tổng hợp đề cử Nobel năm 1972 của Viện Hàn lâm Thụy Điển.
Danh sách được Ủy ban Nobel công bố trong tháng 2, sau 50 năm giữ kín theo quy định của giải này.
Theo đó, Vũ Hoàng Chương là một trong 100 tên tuổi được đề cử.
Viện Hàn lâm Thụy Điển chú thích nhà thơ là Chủ tịch Hội Văn bút Việt Nam, được đề cử lần đầu, người giới thiệu là Thang Lang.
Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên cho rằng Thang Lans thực chất là học giả Thanh Lãng, bị nhầm lẫn do lỗi đánh máy.
Thanh Lãng sinh năm 1924, là linh mục, nhà giáo dục, đỗ tiến sĩ tại Đại học Fribourg, Thụy Sĩ. Ông từng giảng dạy tại Đại học Văn khoa Huế, Đại học Văn khoa Sài Gòn, làm việc tại Viện Khoa học xã hội Sài Gòn.
Ông Phạm Xuân Nguyên nói việc nhà thơ Vũ Hoàng Chương từng được đề cử Nobel là niềm vui, sự vinh dự. Theo ông, văn học nước nhà có cơ hội tiếp cận giải thưởng danh giá, nhưng cần chú ý chọn tác phẩm chất lượng, đảm bảo khâu dịch thuật để các chuyên gia quốc tế dễ dàng hiểu.
Nhà thơ Vũ Hoàng Chương sinh năm 1915 ở Hưng Yên, mất năm 1976 tại Saigon .
Ông từng học trường Albert Sarraut nổi tiếng ở Hà Nội, đỗ tú tài năm 1937. Ông học ngành luật nhưng sau một năm thì bỏ đi làm ngành đường sắt.
Năm 1941, ông bỏ việc đi học cử nhân toán ở Hà Nội nhưng rồi lại rẽ ngang sang dạy học.
Từ những năm 1940, ông sáng tác nhiều thơ, kịch, từng có vở kịch thơ "Vân muội", công diễn tại Nhà hát Lớn Hà Nội.
Từ năm 1946 đến năm 1954, ông gắn với nghề dạy toán, văn ở Nam Định, Hà Nội.
Năm 1954, ông di cư vào Sài Gòn sinh sống, tiếp tục sáng tác và làm nghề giáo. Nhà thơ là tên tuổi nổi bật trong phong trào Thơ Mới (1932-1945).
Nhà phê bình Đỗ Lai Thúy nhận xét Vũ Hoàng Chương là người làm thơ tài hoa, chuyên nghiệp, từng được gọi là "Thi bá Việt Nam". Ông có 15 tập thơ, các vở kịch thơ là "Trương Chi, Vân muội, Hồng diệp"...
Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là tập "Thơ say", gồm 32 bài, ra mắt năm 1940.
Trong "Thi nhân Việt Nam", Hoài Thanh, Hoài Chân viết: "Bấy nhiêu say sưa đều nuôi bằng một say sưa to hơn mọi say sưa khác: Say thơ.... cái say sưa của Vũ Hoàng Chương là một thứ say sưa có chừng mực, say sưa mà không hẳn là trụy lạc, mặc dầu từ say sưa đến trụy lạc đường chẳng dài chi. Nhưng trụy lạc hay say sưa đều mang theo một niềm ngao ngán. Niềm ngao ngán ấy ta vốn đã gặp trong thơ xưa. Duy ở đây có cái vị chua chát, hằn học, và bi đát riêng...".
Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên từng đọc tùy bút "Ta đã làm chi đời ta" của Vũ Hoàng Chương, nói về cuộc sống văn nghệ ở miền Bắc từ đầu thập niên 1940 cho đến giữa thập niên 1950.
Nhà phê bình nhận xét: "Đọc ông ta thấy tình văn nhân thật tri âm tri kỷ mà cũng nhiều cung bậc, sắc thái hỉ nộ ái ố. Cuốn sách như cuốn phim giữ lại cho văn học sử nước nhà một thời đoạn văn nghệ không còn có lại, mãi mãi gắn liền với một thời ly tao của đất nước".
Theo quy trình, hàng năm Ủy ban Nobel Văn học gửi khoảng 600-700 thư mời đánh giá cho thành viên Viện Hàn lâm Thụy Điển hoặc các học viện, viện hàn lâm, tổ chức có cơ cấu và mục đích tương tự; những giáo sư văn học, ngôn ngữ tên tuổi, các nhà văn từng đoạt giải Nobel, Chủ tịch hội nhà văn các nước - đề nghị giới thiệu ứng viên.
Sau đó, họ tập hợp, chọn danh sách gồm khoảng 100 ứng viên để trình lên Viện hàn lâm phê chuẩn.
Danh sách này chỉ được công bố sau 50 năm.
Trải qua các vòng sơ khảo, chung khảo, Ủy ban Nobel sẽ chọn năm người cuối cùng để thảo luận, nghiên cứu và tìm ứng viên chiến thắng.
.
Trước Vũ Hoàng Chương, nhà báo, nhà văn Hồ Hữu Tường (1910-1980) có tên trong danh sách đề cử giải Nobel Văn học năm 1969. Người giới thiệu là nhà thơ Đông Hồ (1906-1969).
Hà Thu
Saturday, December 13, 2025
Tuesday, December 09, 2025
Fwd: Phương Đoàn - Vô một hiệu sách của người Việt ở Nam...
>
>
> Phương Đoàn
>
> Vô một hiệu sách của người Việt ở Nam California, sau một hồi lui cui tìm kiếm rồi cầm một cuốn sách ra quầy trả tiền.
> Người cashier cầm cuốn sách lên ngắm nghía rồi hỏi: " Ủa, sao lại mua cuốn sách này?"
> Mình cười, nói cho qua chuyện: " Bởi tôi sưu tầm đồ cổ."
> Cuốn sách mà mình mua được tái bản lần thứ 2 tại Mỹ vào năm 1989. Cuốn sách này được xuất bản lần đầu tại miền Nam Việt Nam vào đâu khoảng đầu năm 1975, không lâu trước khi Sài Gòn bị thất thủ.
> Đó là cuốn " Xương trắng Trường Sơn ", tập 2 của tùy bút " Đường đi không đến " của tác giả Xuân Vũ.
> Nếu bây giờ vẫn còn một số người phê phán " Nỗi buồn chiến tranh" của Bảo Nình vì sự trần trui, tàn khốc của của chiến thì hãy nên tìm đọc thêm " Đường đi không đến " của Xuân Vũ để hiểu rằng những gì Bảo Ninh miêu tả " chẳng là cái đinh gỉ gì " nếu so với sự thật đớn đau, bẽ bàng của đoàn quân " đi, ta đi giải phóng miền Nam..."
> Điều đáng nói đây không phải là tác phẩm hư cấu, mà là ghi chép dạng tùy bút của chính một người " bộ đội cụ Hồ ", tức là đồng đội của Bảo Ninh.
> Con đường Trường Sơn trong những bản nhạc tuyên truyền hào hùng, lãng mạn làm sao:
> " Trường Sơn ơi, trên đường ta đi không một dấu chân người
> Có con nai vàng ghiêng đôi tai ngơ ngác
> Dừng ở lưng đèo nghe suối hát
> Ngắt đoá hoa rừng gài lên mũ, ta đi..."
> Còn Trường Sơn trên thực tế qua ngòi bút của Xuân Vũ thì toàn xác bộ đội bị bom vùi dập, phơi nắng mưa, một số chỉ còn xương cẳng chân, xương sườn, hộp sọ trắng phau lẫn trong lá mục, không có bia mộ, không có vải liệm, thậm chí không ai dám dừng lại chôn vì máy bay Mỹ rình rập...
> Đặc biệt Xuân Vũ có sinh hoạt chung vơi một số người rất nổi tiếng trong giới văn nghệ miền Bắc và mình thực sự xót thương cho hoàn cảnh éo le, số phận nghiệt ngã của một thần tượng của mình, nhạc sĩ Hoàng Việt với những ca khúc bất hủ như " Tiếng còi trong sương đêm", " Lên ngàn", " Nhạc rừng ", " Tình ca"...
> Có thể bối cảnh trong tùy bút " Xương trắng Trường Sơn " là giai đoạn đầu của cuộc chiến, khi đường mòn Hồ Chí Minh chưa được xây dựng, vậy nên hình ảnh của đoàn quân " giải phóng miền Nam " lội rừng Trường Sơn rất bi thảm, nó giống như một đám tàn quân, thậm chí còn cướp bóc cả những kho quân nhu của " phe mình " vì quá đói khát, túng quẫn...
> Trong đội quân hừng hực ý chí lúc đầu nhưng qua sự khắc nghiệt của Trường Sơn thì nhiều người đã hối hận, thậm chí đào ngũ quay lại Bắc...
> Vậy đấy, văn học là nhân học, văn học phản ánh cuộc sống, mà cuộc sống không phải lúc nào cũng màu hồng.
> Nếu hồi còn chiến tranh, vì lý do chính trị nên văn học chỉ được phép ca ngợi sự hào hùng, chính nghĩa của cuộc chiến, đó là điều dễ hiểu và chấp nhận được. Nhưng đã đến lúc những thế hệ sau được phép nhìn cuộc chiến dưới các góc cạnh khác nhau, cả màu hồng lẫn mặt tối của nó....
> Nhân tiện đây viết thêm về chuyện đào ngũ trong Quân đội Nhân dân Việt Nam mà mình trực tiếp chứng kiến, có điều không phải là trong thời chiến tranh với Mỹ.
> Từ 1975 đến 1978, các tỉnh thuộc biên giới Tây Nam liên tục bị quân Polpot tấn công, xâm lấn.
> Tỉnh Long An nơi mình ở lúc đầu thuộc quân khu 7 nhưng sau đó bị chuyển về quân khu 9. Bởi vậy nên mới có biệt danh cảm thán " Quân khu Chán, tỉnh Long Đong " vì quân khu 9 không được trang bị và hỗ trợ đầy đủ về quân sự.
> Cầm cự giữ biên giới ở Long An chủ yếu là do quân địa phương và dân quân du kích đảm nhận.
> Tỉnh Đội Long An chỉ có một trung đoàn mang tên " Vàm Cỏ " nhưng bị đánh tan tác vì quân số đào ngũ dữ quá, chỉ còn trụ lại một tiểu đoàn làm " xương sống ", đó là tiểu đoàn 1, nổi danh từ thời đánh Mỹ.
> Thấy Long An túng quẫn quá, 2 tỉnh láng giềng là Bến Tre và Tiền Giang không có biên giới với Campuchia nên đã gửi mỗi tỉnh 1 tiểu đoàn quân địa phương lên chi viện cho Long An.
> Ngày 2 tiểu đoàn chi viện tới thì cả Thị xã Tân An trống đánh, nhạc vang, học sinh túa ra đường cầm cờ vẫy, các thiếu nữ áo dài chạy theo xe quàng vòng hoa lên cổ những người lính trẻ măng đang cười toe toét...
> Vậy mà chỉ trong khoảng 1 tháng thì cả 2 tiểu đoàn cũng bị tan tác, không kèn, không trống rút về vị trí cũ. Lý do vì Miên đánh thì ít mà bởi vì lính ta đào ngũ thì nhiều.
> Một thằng bạn thân đang học lớp 12 thì phải đi lính. Mình viết một bài ca ngợi nó, được in báo, lãnh cả tiền nhuận bút nữa, đài phát thanh réo tên nó ra rã trên chương trình " Người tốt, việc tốt"... Vậy mà chưa đầy một năm sau, nó hớt hải chạy đến nhà mình " Cho tao trú tạm vài bữa, chứ tao đào ngũ rồi, quay về nhà thế nào cũng bị bắt lại. Mà Đù Má, mày đem tao lên báo làm gì vậy làm tao khốn khổ như vầy?". Thằng đó sau này vượt biên, giờ đang định cư bên Úc...
> Mà thôi, viết liên miên quá rồi, đang " Nỗi buồn chiến tranh " thì nhảy qua " Xương trắng Trường Sơn" rồi đá thêm về " Long An trung dũng kiên cường-Toàn dân đánh giặc, mượn xuồng không cho"...
> Đúng là " Viết dai, viết dài, đâm ra viết dại..."
> Mai sẽ trở về lại đề tài cố hữu " Cướp, giết, hiếp" cho nó lành...
>
> Phương Đoàn
>
> Vô một hiệu sách của người Việt ở Nam California, sau một hồi lui cui tìm kiếm rồi cầm một cuốn sách ra quầy trả tiền.
> Người cashier cầm cuốn sách lên ngắm nghía rồi hỏi: " Ủa, sao lại mua cuốn sách này?"
> Mình cười, nói cho qua chuyện: " Bởi tôi sưu tầm đồ cổ."
> Cuốn sách mà mình mua được tái bản lần thứ 2 tại Mỹ vào năm 1989. Cuốn sách này được xuất bản lần đầu tại miền Nam Việt Nam vào đâu khoảng đầu năm 1975, không lâu trước khi Sài Gòn bị thất thủ.
> Đó là cuốn " Xương trắng Trường Sơn ", tập 2 của tùy bút " Đường đi không đến " của tác giả Xuân Vũ.
> Nếu bây giờ vẫn còn một số người phê phán " Nỗi buồn chiến tranh" của Bảo Nình vì sự trần trui, tàn khốc của của chiến thì hãy nên tìm đọc thêm " Đường đi không đến " của Xuân Vũ để hiểu rằng những gì Bảo Ninh miêu tả " chẳng là cái đinh gỉ gì " nếu so với sự thật đớn đau, bẽ bàng của đoàn quân " đi, ta đi giải phóng miền Nam..."
> Điều đáng nói đây không phải là tác phẩm hư cấu, mà là ghi chép dạng tùy bút của chính một người " bộ đội cụ Hồ ", tức là đồng đội của Bảo Ninh.
> Con đường Trường Sơn trong những bản nhạc tuyên truyền hào hùng, lãng mạn làm sao:
> " Trường Sơn ơi, trên đường ta đi không một dấu chân người
> Có con nai vàng ghiêng đôi tai ngơ ngác
> Dừng ở lưng đèo nghe suối hát
> Ngắt đoá hoa rừng gài lên mũ, ta đi..."
> Còn Trường Sơn trên thực tế qua ngòi bút của Xuân Vũ thì toàn xác bộ đội bị bom vùi dập, phơi nắng mưa, một số chỉ còn xương cẳng chân, xương sườn, hộp sọ trắng phau lẫn trong lá mục, không có bia mộ, không có vải liệm, thậm chí không ai dám dừng lại chôn vì máy bay Mỹ rình rập...
> Đặc biệt Xuân Vũ có sinh hoạt chung vơi một số người rất nổi tiếng trong giới văn nghệ miền Bắc và mình thực sự xót thương cho hoàn cảnh éo le, số phận nghiệt ngã của một thần tượng của mình, nhạc sĩ Hoàng Việt với những ca khúc bất hủ như " Tiếng còi trong sương đêm", " Lên ngàn", " Nhạc rừng ", " Tình ca"...
> Có thể bối cảnh trong tùy bút " Xương trắng Trường Sơn " là giai đoạn đầu của cuộc chiến, khi đường mòn Hồ Chí Minh chưa được xây dựng, vậy nên hình ảnh của đoàn quân " giải phóng miền Nam " lội rừng Trường Sơn rất bi thảm, nó giống như một đám tàn quân, thậm chí còn cướp bóc cả những kho quân nhu của " phe mình " vì quá đói khát, túng quẫn...
> Trong đội quân hừng hực ý chí lúc đầu nhưng qua sự khắc nghiệt của Trường Sơn thì nhiều người đã hối hận, thậm chí đào ngũ quay lại Bắc...
> Vậy đấy, văn học là nhân học, văn học phản ánh cuộc sống, mà cuộc sống không phải lúc nào cũng màu hồng.
> Nếu hồi còn chiến tranh, vì lý do chính trị nên văn học chỉ được phép ca ngợi sự hào hùng, chính nghĩa của cuộc chiến, đó là điều dễ hiểu và chấp nhận được. Nhưng đã đến lúc những thế hệ sau được phép nhìn cuộc chiến dưới các góc cạnh khác nhau, cả màu hồng lẫn mặt tối của nó....
> Nhân tiện đây viết thêm về chuyện đào ngũ trong Quân đội Nhân dân Việt Nam mà mình trực tiếp chứng kiến, có điều không phải là trong thời chiến tranh với Mỹ.
> Từ 1975 đến 1978, các tỉnh thuộc biên giới Tây Nam liên tục bị quân Polpot tấn công, xâm lấn.
> Tỉnh Long An nơi mình ở lúc đầu thuộc quân khu 7 nhưng sau đó bị chuyển về quân khu 9. Bởi vậy nên mới có biệt danh cảm thán " Quân khu Chán, tỉnh Long Đong " vì quân khu 9 không được trang bị và hỗ trợ đầy đủ về quân sự.
> Cầm cự giữ biên giới ở Long An chủ yếu là do quân địa phương và dân quân du kích đảm nhận.
> Tỉnh Đội Long An chỉ có một trung đoàn mang tên " Vàm Cỏ " nhưng bị đánh tan tác vì quân số đào ngũ dữ quá, chỉ còn trụ lại một tiểu đoàn làm " xương sống ", đó là tiểu đoàn 1, nổi danh từ thời đánh Mỹ.
> Thấy Long An túng quẫn quá, 2 tỉnh láng giềng là Bến Tre và Tiền Giang không có biên giới với Campuchia nên đã gửi mỗi tỉnh 1 tiểu đoàn quân địa phương lên chi viện cho Long An.
> Ngày 2 tiểu đoàn chi viện tới thì cả Thị xã Tân An trống đánh, nhạc vang, học sinh túa ra đường cầm cờ vẫy, các thiếu nữ áo dài chạy theo xe quàng vòng hoa lên cổ những người lính trẻ măng đang cười toe toét...
> Vậy mà chỉ trong khoảng 1 tháng thì cả 2 tiểu đoàn cũng bị tan tác, không kèn, không trống rút về vị trí cũ. Lý do vì Miên đánh thì ít mà bởi vì lính ta đào ngũ thì nhiều.
> Một thằng bạn thân đang học lớp 12 thì phải đi lính. Mình viết một bài ca ngợi nó, được in báo, lãnh cả tiền nhuận bút nữa, đài phát thanh réo tên nó ra rã trên chương trình " Người tốt, việc tốt"... Vậy mà chưa đầy một năm sau, nó hớt hải chạy đến nhà mình " Cho tao trú tạm vài bữa, chứ tao đào ngũ rồi, quay về nhà thế nào cũng bị bắt lại. Mà Đù Má, mày đem tao lên báo làm gì vậy làm tao khốn khổ như vầy?". Thằng đó sau này vượt biên, giờ đang định cư bên Úc...
> Mà thôi, viết liên miên quá rồi, đang " Nỗi buồn chiến tranh " thì nhảy qua " Xương trắng Trường Sơn" rồi đá thêm về " Long An trung dũng kiên cường-Toàn dân đánh giặc, mượn xuồng không cho"...
> Đúng là " Viết dai, viết dài, đâm ra viết dại..."
> Mai sẽ trở về lại đề tài cố hữu " Cướp, giết, hiếp" cho nó lành...
Nguyễn Tuấn - "Nỗi Buồn Chiến Tranh" và "Dấu Binh Lửa"...
Nguyễn Tuấn
December 5 at 12:44 AM
"Nỗi Buồn Chiến Tranh" và "Dấu Binh Lửa"
Đó là hai tác phẩm của hai nhà văn thuộc hai bên chiến tuyến. Cùng viết về xác người giữa chiến trường, một bên ném cái xác như ném bao tải, một bên khóc thầm trước chiếc áo tím còn bay trong gió.
Tác phẩm "Nổi Buồn Chiến Tranh" (NBCT) của Nhà văn Bảo Ninh được vinh danh, và vậy là có lời ra tiếng vào. Tôi nghĩ vinh danh ok mà.
Ở đây, tôi liên tưởng tới một nhà văn quân đội khác, thuộc bên kia chiến tuyến: Phan Nhật Nam. So sánh cách họ viết cũng ngộ ra vài điều.
Hồi đó (tức ~30 năm trước), khi sách mới xuất bản, NBCT được giới thiệu như là một 'sản phẩm' của trào lưu đổi mới văn học Việt Nam. Tác giả dám nói đến những mất mát và đau thương trong thời chiến, vốn là một đề tài cấm kị trước đó. Giới phê bình văn học, trong và ngoài nước, nhận xét rằng NBCT thể hiện một suy nghĩ nghệ thuật mới mẻ. Và, đúng như vậy.
■ Văn chương 'graphic'
Thấy giới thiệu nồng nhiệt như vậy, tôi cũng cố gắng tìm mua để đọc. Tôi đọc NBCT một lần. Nhưng không dám đọc lại lần nữa vì hình ảnh trong đó quá … 'ấn tượng'.
Dĩ nhiên, nhà văn là người có tài viết văn hay, và quả thật trong sách có nhiều câu văn đẹp.
Nhưng trong tiểu thuyết cũng có những đoạn văn rất ... khó đọc. Thử đọc một đoạn trong NBCT mô tả cái nhìn của nhân vật chánh trong tiểu thuyết tên Kiên:
"Kiên hờ hững ngó ra sau. À. Một cái xác. Một cái xác đàn bà trắng hếu, ngưc ưỡn dựng lên, chân dang ra như hai lưỡi léo, mái tóc đổ xõa che lấp nửa mặt, nằm gần như chắn ngang trước cửa phòng hải quan. Còn trẻ, mắt nhắm hờ. Dưới lưng không thấy vũng máu…"
và đoạn mô tả đối phương:
"[...] Một gã hộ pháp. Ðội mũ sắt, có lẽ là lính cao xạ từ trong phòng hải quan đi ra khệ nệ khuân trên tay hai két bia 33. Bước qua ngưỡng cửa mắt nghếch lên, gã vấp phải cái xác bị xô chúi tới, ngã sấp. Cả đống bia giáng xuống loảng choảng chai vỡ tan, bia óng vàng tuôn lênh láng. Ðám lính tăng cười ro. Kiên nhếch mép.
Sượng sùng gã sục 'đồ cổ' nhỏm dậy tức tối vò hai nắm đấm gườm gườm nhìn những kẻ đang cười nhạo mình. Rồi nhổ toẹt, hầm hầm cái mặt, hắn sấn lại đá tới tấp vào cái vật vừa ngáng chân hắn Vừa đá vừa rống lên:
'Ð mẹ mầy, con đĩ! Mày ưỡn của nợ ra đây cho chúng nó ngắm à! Mày gài mìn bố mày! Tổ sư mày, cười cái cắc củ! Ðứa nào thích ngắm nghía mày thì kệ bố mày! Bố mày cứ dọn phắt mày đi!'
Chửi đoạn, thằng cha 'Chí Phèo' túm lấy một chân người chết xềnh xệch kéo lết đi.
Thằng chó má dã man léo sền sệt cái xác khốn khổ qua mặt sân bê tông loáng sáng nước mưa và nắng chói, rồi hự, hắn choãi chân vặn lưng lấy đà quăng mạnh, liệng bổng người ta lên.
Xoay lộn mấy vòng, cái xác trắng rợn bay chênh chếch rồi thịch xuống cạnh mấy cái thây lính dù chưa ai dọn. Lưng vừa chạm đất, người đàn bà chết ngồi bật dậy, hai tay đưa vung lên, cái miệng tuồng như há ra chực kêu rồi ngã vật nghiêng, đập đầu xuống. Tên súc sinh khệnh khạng bỏ đi tay khuỳnh khuỳnh ra dáng người hùng…"
Thật ra, văn chương bạo lực và 'graphic' như vầy khá phổ biến ở các tác giả khác nữa. Độc giả sẽ phải gặp những câu đầy ám ảnh như "mụ ngụy cái ngực vỡ toác", "moi tim gan nướng ăn tại chỗ", "xẻo vú bộ đội nữ", v.v. Thử đọc một đoạn sau đây của một nhà văn nổi tiếng:
"… quân ta ào lên, bắt giết, đâm, dẫm đạp. Một mụ ngụy cái, ngực để trần, miệng há ra ú ớ. Niềm căm thù kẻ hạnh phúc hơn mình bốc lên ngùn ngụt trong ngực mình. Mình găm vào ngực mụ cả loạt khiến ngực mụ vỡ toác mà mặt mụ vẫn chưa hết hy vọng. Giết người lúc ấy sao thấy sướng thế! Một thằng ngụy bị mình xọc lê vào bụng, nghe 'thụt' một cái. Mình nghiến răng vặn lê rồi trở báng súng phang vào giữa mặt hắn. Hắn lộn một vòng, gồng mình giẫy chết như con tôm sống bị ném vào chảo mỡ…"
Đó là cách mà một số nhà văn mô tả những kẻ thuộc bên kia chiến tuyến.
Đọc lên mà thấy ghê rợn. Người phương Tây gọi là cách viết 'graphic'. Họ có thể viết ra những câu chữ đó làm tôi kinh ngạc.
■ Làm tôi liên tưởng tới một nhà văn quân đội bên kia chiến tuyến: Phan Nhật Nam.
Phan Nhật Nam là một nhà văn nổi tiếng thời trước 1975. Ông người gốc Quảng Trị. Thân phụ ông là người bên kia chiến tuyến, và từng là đảng viên Đảng CSVN. Sau 1975, ông bị bắt đi tù cải tạo suốt 14 năm trời, trước khi sang Mĩ định cư.
Nói đến Phan Nhật Nam, những người thuộc thế hệ tôi đều nghĩ ngay đến cuốn "Mùa Hè Đỏ Lửa". Đó là một loại tuỳ bút được viết ra trong trận chiến ở Quảng Trị vào năm 1973, có liên quan một chút đến phim "Mưa Đỏ" đình đám gần đây.
Nhưng cá nhân tôi thích cuốn "Dấu Binh Lửa" hơn. Trong Dấu Binh Lửa (tác phẩm đầu tay, 1969), tác giả khắc họa rõ hơn những mặt người trong cuộc chiến tàn khốc. Trong tác phẩm của Phan Nhật Nam độc giả cũng sẽ thấy khói súng, thương tích, hoang mang, thậm chí cái chết, nhưng được mô tả bằng một văn phong gần như thơ, chớ không graphic như trên.
Thử đọc tâm trạng và suy nghĩ của người lính VNCH như Phan Nhật Nam khi bắt được một nữ bộ đội:
"… Chị không hiểu được lời nói của tôi, một người Việt Nam ở cùng trên một mảnh đất. Chị tưởng tôi thèm muốn thân xác và đòi hiếp dâm! Tội nghiệp cho tôi biết bao nhiêu, một tên sĩ quan hai mươi mốt tuổi làm sao có thể biết đời sống đầy máu lửa và đớn đau tủi hổ đến ngần này. Tôi đi lính chỉ với một ý nghĩ: Đi cho cùng quê hương và chấm dứt chiến tranh bằng cách góp mặt. Thê thảm biết bao nhiêu cho tôi với ngộ nhận tủi hổ này. Tôi muốn đưa tay lên gài những chiếc nút áo bật tung, muốn lau nước mắt trên mặt chị, nhưng chân tay cứng ngắc, hổ thẹn. Và chị nữa, người đàn bà quê thật tội nghiệp. Cảnh sống nào đã đưa chị vào cơn sợ hãi mê muội để dẫn dắt những ngón tay cởi tung hàng nút áo, sẵn sàng hiến thân cho một tên lính trẻ, tuổi chỉ bằng em út, trong khi nước mắt chan hòa trên khuôn mặt đôn hậu tràn kinh hãi." (Dấu Binh Lửa).
Phan Nhật Nam tỏ ra đau xót, thẫn thờ và thất vọng trước cái chết quá bi thảm cô gái trẻ vô tội:
"Khi tôi bước ra đàng sau nhà thờ, qua khu nhà ở của những người chết, một chiếc áo tím chắc hẳn của cô gái còn phơi phới bay trong gió… Nhìn ra xa, xác cô gái nằm thẳng trên sàn gạch, nắng thật sáng rọi lên rực rỡ. Người tôi ai cắm một lưỡi dao oan nghiệt vào tim, thật buồn. Tôi loay hoay đốt một điếu thuốc. Cái chết qủa bi thảm, nhưng hình ảnh của cô gái nằm chết khi chiếc áo còn bay trong gió vang vang nơi trí não tôi như một tiếng kêu thê thảm không dứt âm" (Dấu Binh Lửa).
Viết về người bên kia chiến tuyến:
"Nòng súng thượng liên Trung cộng, tiểu liên Tiệp khắc, súng báng đỏ của Nga, những cây súng ngoại quốc bắt đầu… nhắm vào đám lính mang giày Nhật, nón sắt Mỹ, M16. Những ngón tay Việt Nam chờ đợi trái tim Việt Nam đến gần hơn chút nữa."
và:
"Gã nhà quê nầy là kẻ thù của mình? ... Tên Việt cộng khoảng 15 tuổi, xanh mét, run rẩy dưới cơn sợ không gợi cho Thuấn cảm giác về vóc dáng kẻ thù đúng cỡ."
■ So sánh 1: Thái độ với bạo lực
Bảo Ninh: Bạo lực được miêu tả rất graphic, chi tiết sinh học, gần như phô bày sự tàn phá của chiến tranh lên cơ thể con người một cách lạnh lùng, đôi khi có phần khoái cảm trả thù ngầm. Cái chết của người bên kia chiến tuyến thường bị vật thể hóa (cái xác đàn bà trắng hếu, bị đá, bị liệng như đồ vật), hoặc bị mô tả với sự khinh miệt, thóa mạ (con đĩ, đồ cổ, mụ ngụy).
Phan Nhật Nam: Bạo lực vẫn hiện diện (rất nhiều), nhưng hầu như luôn được lọc qua cảm thức đau đớn nhân bản. Ông không né tránh máu me, xác người, nhưng cái nhìn của ông là cái nhìn thương xót đối với cả hai phía. Người chết bên kia (cô gái áo tím, "tên Việt Cộng 15 tuổi") vẫn là con người, vẫn gợi lên lòng trắc ẩn, sự bất lực và tuyệt vọng của chính người lính VNCH. Ông không bao giờ để nhân vật của mình có khoái cảm trả thù khi giết hay hành hạ xác đối phương.
■ So sánh 2: Cách nhìn người bên kia chiến tuyến
Bảo Ninh: Người lính VNCH và 'ngụy' có khi bị phi nhân hóa. Họ là "đồ cổ", "Chí Phèo", "súc vật", "thằng chó má dã man". Ngay cả người chết cũng không còn được nhìn như con người nữa, chỉ là vật cản, là đối tượng để trút giận. Có rất ít (gần như không có) khoảnh khắc nào nhân vật chính cảm thấy thương xót thực sự cho kẻ thù.
Phan Nhật Nam: Luôn có sự đồng cảm đau đớn. Ông gọi họ là "chị", "cô gái", "tên nhà quê", "đứa trẻ 15 tuổi". Ngay cả khi có cái chết, ông vẫn thấy đó là bi kịch của dân tộc: "những ngón tay Việt Nam nhắm vào trái tim Việt Nam".
■ So sánh 3: Ngôn ngữ và văn phòng
Bảo Ninh: Văn phong cứng, gắt, đôi khi thô tục cố ý, nhiều câu ngắn như nhát dao, tạo cảm giác nghẹt thở, điên loạn. Ngôn ngữ đôi chỗ gần với tiếng lính ngoài đời thật (chửi thề, chửi tục), nhưng được đẩy lên thành nghệ thuật của sự phẫn nộ và trả thù. Nhiều đoạn đọc xong thấy ghê rợn và nặng nề.
Phan Nhật Nam: Văn phong mềm mà sắc, gần như thơ trữ tình giữa khói lửa. Dù viết về chiến tranh ác liệt (Quảng Trị 1972), câu văn vẫn rất đẹp, giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu, đầy chất tự sự nội tâm. Ông ít dùng từ tục (dù lính VNCH ngoài đời chửi tục chẳng kém ai), thay vào đó là những câu dài, day dứt, ám ảnh theo kiểu "cái đẹp bị hủy hoại giữa chiến tranh".
■ So sánh 4: Tính phản chiến?
Nỗi Buồn Chiến Tranh thường được ca ngợi là tác phẩm phản chiến tiên phong của văn học đổi mới. Nhưng nếu đọc kĩ, độc giả sẽ thấy nó không phản chiến một cách toàn diện như nhiều người bảo thủ nghĩ đâu. Nó chỉ phản chiến ở chỗ nói được nỗi đau của người lính bên thắng cuộc (điều trước đó bị cấm kị). Còn đối với bên kia, nó vẫn đầy định kiến sắt máu và khoái cảm trả thù.
Phan Nhật Nam mới thực sự là phản chiến theo nghĩa nhân bản: ông đau đớn vì cả hai bên đều là người Việt giết nhau, đều là nạn nhân của lịch sử. Ông không cần phải "được phép" nói như các nhà văn khác; ông nói từ rất sớm, ngay giữa chiến tranh, và nói bằng cả trái tim tan nát của một người lính trẻ.
Tóm lại, tôi đọc Nỗi Buồn Chiến Tranh một lần và không dám đọc lại, còn đọc Dấu Binh Lửa và các tạp bút của Phan Nhật Nam nhiều lần, mỗi lần vẫn thấy đau thắt ở ngực.
Một bên là tiếng gào của người thắng muốn cho cả thế giới biết mình cũng đau, dù đã thắng; một bên là tiếng khóc thầm của người thua, nhưng vẫn khóc thương cả cho người thắng.
Đó là sự khác biệt lớn nhứt giữa hai văn phong và cũng là bi kịch của văn học chiến tranh Việt Nam: cả hai đều là bậc tài năng, nhưng một người viết bằng máu trả thù, còn một người viết bằng nước mắt của lòng nhân. Có thể tác giả không phải là người như vậy, nhưng văn chương của họ buộc người đọc hiểu theo nghĩa đó.
Bảo Ninh quăng xác kẻ thù trên trang giấy; Phan Nhật Nam ôm lấy cả kẻ thù mà khóc. Năm 1990, cả thế giới ngợi ca Bảo Ninh dám viết về nỗi đau chiến tranh và điều này đúng. Nhưng 20 năm trước đó, một sĩ quan trẻ tên Phan Nhật Nam đã viết những dòng đau hơn gấp bội -- và chẳng ai được phép đọc/nghe.
December 5 at 12:44 AM
"Nỗi Buồn Chiến Tranh" và "Dấu Binh Lửa"
Đó là hai tác phẩm của hai nhà văn thuộc hai bên chiến tuyến. Cùng viết về xác người giữa chiến trường, một bên ném cái xác như ném bao tải, một bên khóc thầm trước chiếc áo tím còn bay trong gió.
Tác phẩm "Nổi Buồn Chiến Tranh" (NBCT) của Nhà văn Bảo Ninh được vinh danh, và vậy là có lời ra tiếng vào. Tôi nghĩ vinh danh ok mà.
Ở đây, tôi liên tưởng tới một nhà văn quân đội khác, thuộc bên kia chiến tuyến: Phan Nhật Nam. So sánh cách họ viết cũng ngộ ra vài điều.
Hồi đó (tức ~30 năm trước), khi sách mới xuất bản, NBCT được giới thiệu như là một 'sản phẩm' của trào lưu đổi mới văn học Việt Nam. Tác giả dám nói đến những mất mát và đau thương trong thời chiến, vốn là một đề tài cấm kị trước đó. Giới phê bình văn học, trong và ngoài nước, nhận xét rằng NBCT thể hiện một suy nghĩ nghệ thuật mới mẻ. Và, đúng như vậy.
■ Văn chương 'graphic'
Thấy giới thiệu nồng nhiệt như vậy, tôi cũng cố gắng tìm mua để đọc. Tôi đọc NBCT một lần. Nhưng không dám đọc lại lần nữa vì hình ảnh trong đó quá … 'ấn tượng'.
Dĩ nhiên, nhà văn là người có tài viết văn hay, và quả thật trong sách có nhiều câu văn đẹp.
Nhưng trong tiểu thuyết cũng có những đoạn văn rất ... khó đọc. Thử đọc một đoạn trong NBCT mô tả cái nhìn của nhân vật chánh trong tiểu thuyết tên Kiên:
"Kiên hờ hững ngó ra sau. À. Một cái xác. Một cái xác đàn bà trắng hếu, ngưc ưỡn dựng lên, chân dang ra như hai lưỡi léo, mái tóc đổ xõa che lấp nửa mặt, nằm gần như chắn ngang trước cửa phòng hải quan. Còn trẻ, mắt nhắm hờ. Dưới lưng không thấy vũng máu…"
và đoạn mô tả đối phương:
"[...] Một gã hộ pháp. Ðội mũ sắt, có lẽ là lính cao xạ từ trong phòng hải quan đi ra khệ nệ khuân trên tay hai két bia 33. Bước qua ngưỡng cửa mắt nghếch lên, gã vấp phải cái xác bị xô chúi tới, ngã sấp. Cả đống bia giáng xuống loảng choảng chai vỡ tan, bia óng vàng tuôn lênh láng. Ðám lính tăng cười ro. Kiên nhếch mép.
Sượng sùng gã sục 'đồ cổ' nhỏm dậy tức tối vò hai nắm đấm gườm gườm nhìn những kẻ đang cười nhạo mình. Rồi nhổ toẹt, hầm hầm cái mặt, hắn sấn lại đá tới tấp vào cái vật vừa ngáng chân hắn Vừa đá vừa rống lên:
'Ð mẹ mầy, con đĩ! Mày ưỡn của nợ ra đây cho chúng nó ngắm à! Mày gài mìn bố mày! Tổ sư mày, cười cái cắc củ! Ðứa nào thích ngắm nghía mày thì kệ bố mày! Bố mày cứ dọn phắt mày đi!'
Chửi đoạn, thằng cha 'Chí Phèo' túm lấy một chân người chết xềnh xệch kéo lết đi.
Thằng chó má dã man léo sền sệt cái xác khốn khổ qua mặt sân bê tông loáng sáng nước mưa và nắng chói, rồi hự, hắn choãi chân vặn lưng lấy đà quăng mạnh, liệng bổng người ta lên.
Xoay lộn mấy vòng, cái xác trắng rợn bay chênh chếch rồi thịch xuống cạnh mấy cái thây lính dù chưa ai dọn. Lưng vừa chạm đất, người đàn bà chết ngồi bật dậy, hai tay đưa vung lên, cái miệng tuồng như há ra chực kêu rồi ngã vật nghiêng, đập đầu xuống. Tên súc sinh khệnh khạng bỏ đi tay khuỳnh khuỳnh ra dáng người hùng…"
Thật ra, văn chương bạo lực và 'graphic' như vầy khá phổ biến ở các tác giả khác nữa. Độc giả sẽ phải gặp những câu đầy ám ảnh như "mụ ngụy cái ngực vỡ toác", "moi tim gan nướng ăn tại chỗ", "xẻo vú bộ đội nữ", v.v. Thử đọc một đoạn sau đây của một nhà văn nổi tiếng:
"… quân ta ào lên, bắt giết, đâm, dẫm đạp. Một mụ ngụy cái, ngực để trần, miệng há ra ú ớ. Niềm căm thù kẻ hạnh phúc hơn mình bốc lên ngùn ngụt trong ngực mình. Mình găm vào ngực mụ cả loạt khiến ngực mụ vỡ toác mà mặt mụ vẫn chưa hết hy vọng. Giết người lúc ấy sao thấy sướng thế! Một thằng ngụy bị mình xọc lê vào bụng, nghe 'thụt' một cái. Mình nghiến răng vặn lê rồi trở báng súng phang vào giữa mặt hắn. Hắn lộn một vòng, gồng mình giẫy chết như con tôm sống bị ném vào chảo mỡ…"
Đó là cách mà một số nhà văn mô tả những kẻ thuộc bên kia chiến tuyến.
Đọc lên mà thấy ghê rợn. Người phương Tây gọi là cách viết 'graphic'. Họ có thể viết ra những câu chữ đó làm tôi kinh ngạc.
■ Làm tôi liên tưởng tới một nhà văn quân đội bên kia chiến tuyến: Phan Nhật Nam.
Phan Nhật Nam là một nhà văn nổi tiếng thời trước 1975. Ông người gốc Quảng Trị. Thân phụ ông là người bên kia chiến tuyến, và từng là đảng viên Đảng CSVN. Sau 1975, ông bị bắt đi tù cải tạo suốt 14 năm trời, trước khi sang Mĩ định cư.
Nói đến Phan Nhật Nam, những người thuộc thế hệ tôi đều nghĩ ngay đến cuốn "Mùa Hè Đỏ Lửa". Đó là một loại tuỳ bút được viết ra trong trận chiến ở Quảng Trị vào năm 1973, có liên quan một chút đến phim "Mưa Đỏ" đình đám gần đây.
Nhưng cá nhân tôi thích cuốn "Dấu Binh Lửa" hơn. Trong Dấu Binh Lửa (tác phẩm đầu tay, 1969), tác giả khắc họa rõ hơn những mặt người trong cuộc chiến tàn khốc. Trong tác phẩm của Phan Nhật Nam độc giả cũng sẽ thấy khói súng, thương tích, hoang mang, thậm chí cái chết, nhưng được mô tả bằng một văn phong gần như thơ, chớ không graphic như trên.
Thử đọc tâm trạng và suy nghĩ của người lính VNCH như Phan Nhật Nam khi bắt được một nữ bộ đội:
"… Chị không hiểu được lời nói của tôi, một người Việt Nam ở cùng trên một mảnh đất. Chị tưởng tôi thèm muốn thân xác và đòi hiếp dâm! Tội nghiệp cho tôi biết bao nhiêu, một tên sĩ quan hai mươi mốt tuổi làm sao có thể biết đời sống đầy máu lửa và đớn đau tủi hổ đến ngần này. Tôi đi lính chỉ với một ý nghĩ: Đi cho cùng quê hương và chấm dứt chiến tranh bằng cách góp mặt. Thê thảm biết bao nhiêu cho tôi với ngộ nhận tủi hổ này. Tôi muốn đưa tay lên gài những chiếc nút áo bật tung, muốn lau nước mắt trên mặt chị, nhưng chân tay cứng ngắc, hổ thẹn. Và chị nữa, người đàn bà quê thật tội nghiệp. Cảnh sống nào đã đưa chị vào cơn sợ hãi mê muội để dẫn dắt những ngón tay cởi tung hàng nút áo, sẵn sàng hiến thân cho một tên lính trẻ, tuổi chỉ bằng em út, trong khi nước mắt chan hòa trên khuôn mặt đôn hậu tràn kinh hãi." (Dấu Binh Lửa).
Phan Nhật Nam tỏ ra đau xót, thẫn thờ và thất vọng trước cái chết quá bi thảm cô gái trẻ vô tội:
"Khi tôi bước ra đàng sau nhà thờ, qua khu nhà ở của những người chết, một chiếc áo tím chắc hẳn của cô gái còn phơi phới bay trong gió… Nhìn ra xa, xác cô gái nằm thẳng trên sàn gạch, nắng thật sáng rọi lên rực rỡ. Người tôi ai cắm một lưỡi dao oan nghiệt vào tim, thật buồn. Tôi loay hoay đốt một điếu thuốc. Cái chết qủa bi thảm, nhưng hình ảnh của cô gái nằm chết khi chiếc áo còn bay trong gió vang vang nơi trí não tôi như một tiếng kêu thê thảm không dứt âm" (Dấu Binh Lửa).
Viết về người bên kia chiến tuyến:
"Nòng súng thượng liên Trung cộng, tiểu liên Tiệp khắc, súng báng đỏ của Nga, những cây súng ngoại quốc bắt đầu… nhắm vào đám lính mang giày Nhật, nón sắt Mỹ, M16. Những ngón tay Việt Nam chờ đợi trái tim Việt Nam đến gần hơn chút nữa."
và:
"Gã nhà quê nầy là kẻ thù của mình? ... Tên Việt cộng khoảng 15 tuổi, xanh mét, run rẩy dưới cơn sợ không gợi cho Thuấn cảm giác về vóc dáng kẻ thù đúng cỡ."
■ So sánh 1: Thái độ với bạo lực
Bảo Ninh: Bạo lực được miêu tả rất graphic, chi tiết sinh học, gần như phô bày sự tàn phá của chiến tranh lên cơ thể con người một cách lạnh lùng, đôi khi có phần khoái cảm trả thù ngầm. Cái chết của người bên kia chiến tuyến thường bị vật thể hóa (cái xác đàn bà trắng hếu, bị đá, bị liệng như đồ vật), hoặc bị mô tả với sự khinh miệt, thóa mạ (con đĩ, đồ cổ, mụ ngụy).
Phan Nhật Nam: Bạo lực vẫn hiện diện (rất nhiều), nhưng hầu như luôn được lọc qua cảm thức đau đớn nhân bản. Ông không né tránh máu me, xác người, nhưng cái nhìn của ông là cái nhìn thương xót đối với cả hai phía. Người chết bên kia (cô gái áo tím, "tên Việt Cộng 15 tuổi") vẫn là con người, vẫn gợi lên lòng trắc ẩn, sự bất lực và tuyệt vọng của chính người lính VNCH. Ông không bao giờ để nhân vật của mình có khoái cảm trả thù khi giết hay hành hạ xác đối phương.
■ So sánh 2: Cách nhìn người bên kia chiến tuyến
Bảo Ninh: Người lính VNCH và 'ngụy' có khi bị phi nhân hóa. Họ là "đồ cổ", "Chí Phèo", "súc vật", "thằng chó má dã man". Ngay cả người chết cũng không còn được nhìn như con người nữa, chỉ là vật cản, là đối tượng để trút giận. Có rất ít (gần như không có) khoảnh khắc nào nhân vật chính cảm thấy thương xót thực sự cho kẻ thù.
Phan Nhật Nam: Luôn có sự đồng cảm đau đớn. Ông gọi họ là "chị", "cô gái", "tên nhà quê", "đứa trẻ 15 tuổi". Ngay cả khi có cái chết, ông vẫn thấy đó là bi kịch của dân tộc: "những ngón tay Việt Nam nhắm vào trái tim Việt Nam".
■ So sánh 3: Ngôn ngữ và văn phòng
Bảo Ninh: Văn phong cứng, gắt, đôi khi thô tục cố ý, nhiều câu ngắn như nhát dao, tạo cảm giác nghẹt thở, điên loạn. Ngôn ngữ đôi chỗ gần với tiếng lính ngoài đời thật (chửi thề, chửi tục), nhưng được đẩy lên thành nghệ thuật của sự phẫn nộ và trả thù. Nhiều đoạn đọc xong thấy ghê rợn và nặng nề.
Phan Nhật Nam: Văn phong mềm mà sắc, gần như thơ trữ tình giữa khói lửa. Dù viết về chiến tranh ác liệt (Quảng Trị 1972), câu văn vẫn rất đẹp, giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu, đầy chất tự sự nội tâm. Ông ít dùng từ tục (dù lính VNCH ngoài đời chửi tục chẳng kém ai), thay vào đó là những câu dài, day dứt, ám ảnh theo kiểu "cái đẹp bị hủy hoại giữa chiến tranh".
■ So sánh 4: Tính phản chiến?
Nỗi Buồn Chiến Tranh thường được ca ngợi là tác phẩm phản chiến tiên phong của văn học đổi mới. Nhưng nếu đọc kĩ, độc giả sẽ thấy nó không phản chiến một cách toàn diện như nhiều người bảo thủ nghĩ đâu. Nó chỉ phản chiến ở chỗ nói được nỗi đau của người lính bên thắng cuộc (điều trước đó bị cấm kị). Còn đối với bên kia, nó vẫn đầy định kiến sắt máu và khoái cảm trả thù.
Phan Nhật Nam mới thực sự là phản chiến theo nghĩa nhân bản: ông đau đớn vì cả hai bên đều là người Việt giết nhau, đều là nạn nhân của lịch sử. Ông không cần phải "được phép" nói như các nhà văn khác; ông nói từ rất sớm, ngay giữa chiến tranh, và nói bằng cả trái tim tan nát của một người lính trẻ.
Tóm lại, tôi đọc Nỗi Buồn Chiến Tranh một lần và không dám đọc lại, còn đọc Dấu Binh Lửa và các tạp bút của Phan Nhật Nam nhiều lần, mỗi lần vẫn thấy đau thắt ở ngực.
Một bên là tiếng gào của người thắng muốn cho cả thế giới biết mình cũng đau, dù đã thắng; một bên là tiếng khóc thầm của người thua, nhưng vẫn khóc thương cả cho người thắng.
Đó là sự khác biệt lớn nhứt giữa hai văn phong và cũng là bi kịch của văn học chiến tranh Việt Nam: cả hai đều là bậc tài năng, nhưng một người viết bằng máu trả thù, còn một người viết bằng nước mắt của lòng nhân. Có thể tác giả không phải là người như vậy, nhưng văn chương của họ buộc người đọc hiểu theo nghĩa đó.
Bảo Ninh quăng xác kẻ thù trên trang giấy; Phan Nhật Nam ôm lấy cả kẻ thù mà khóc. Năm 1990, cả thế giới ngợi ca Bảo Ninh dám viết về nỗi đau chiến tranh và điều này đúng. Nhưng 20 năm trước đó, một sĩ quan trẻ tên Phan Nhật Nam đã viết những dòng đau hơn gấp bội -- và chẳng ai được phép đọc/nghe.
Subscribe to:
Comments (Atom)